Chương 2. Tại sao chúng tôi TIN VÀO KHOA HỌC

Khi còn nhỏ, tôi không hứng thú lắm với tôn giáo, nhưng tôi thích khoa học. Khi tôi mười tuổi, Câu lạc bộ Các nhà thiên văn học trẻ của trường chúng tôi đã đến thăm Phòng thí nghiệm Lực đẩy máy bay phản lực ở California. Trong một chuyến tham quan, chúng tôi đứng trên một sàn catwalk lơ lửng bên trên hơn một chục khoa học gia đang chuẩn bị cho tàu vũ trụ Cassini được sẵn sàng phóng đi. Khi nhìn qua lan can, tôi nghĩ về những gì khoa học đã trao cho nhân loại: nào là Internet, nào là máy bay và thuốc men hiện đại.
Năm sau, tôi vào cấp hai và quyết định rằng tôi sẽ chỉ tin vào những gì khoa học chứng nhận. Nhưng một vài năm sau đó, khi chuyển sang niềm tin Công giáo, tôi thấy mình đã đặt quá nhiều niềm tin vào khoa học, và không có đủ niềm tin vào những con đường phi khoa học để khám phá sự thật.
KHOA HỌC LÀ GÌ?
Trong thời Trung cổ, khoa học được định nghĩa là “kiến thức về vạn vật từ căn nguyên của chúng” [1] (từ tiếng Latinh scientia có nghĩa là “kiến thức”). Từ này bao gồm những kiến thức về vạn vật tự nhiên, như các ngôi sao và hành tinh, cũng như kiến thức về các sự vật siêu nhiên, như là các thiên thần hay Thiên Chúa. Nhưng vào năm 1837, William Whewell đã đặt ra thuật ngữ "nhà khoa học" để chỉ về một ai tìm kiếm lời giải thích tự nhiên và có hệ thống cho các hiện tượng quan sát được.
Theo định nghĩa mới này, các nhà khoa học không thể đưa Chúa ra để giải thích cho những gì họ quan sát được. Vì sự hiện hữu của Chúa nằm ở bên ngoài thế giới tự nhiên có thể quan sát được, nên không thể dùng khoa học mà nghiên cứu Thiên Chúa - nhưng điều đó không có nghĩa là Thiên Chúa không hiện hữu.
Một cái máy dò kim loại không thể phát hiện được kim cương, nhưng điều đó không có nghĩa là không có những mảnh đá quý trên bãi biển có thể rơi ra khỏi vật trang sức của ai đó. Giống như máy dò kim loại, “các công cụ tư duy” chúng ta sử dụng để khám phá thế giới đều có giới hạn, và ranh giới của thế giới tự nhiên chính là giới hạn của khoa học. Có thể có một điều chi vượt ra ngoài ranh giới đó, như Thiên Chúa chẳng hạn, chúng ta cần phải dùng đến những công cụ khác ngoài khoa học để tìm ra.
Một số người nghĩ rằng khoa học là công cụ duy nhất chúng ta cần sử dụng để khám phá thế giới và chúng ta không được tin vào bất cứ một điều chi không được khoa học chứng nhận. Thái độ này được gọi là chủ nghĩa duy khoa học, chủ nghĩa này tự bác bỏ mình vì đâu có một thí nghiệm khoa học nào chứng minh được chỉ có một tri thức đáng tin là khoa học. Hơn nữa, có nhiều điều chúng ta tin không thể chứng minh bằng khoa học.
Để trả lời cho câu hỏi “Khoa học có quan trọng không?”, nếu bạn nói "có" thì bạn sẽ làm thế nào để chứng minh cho điều đó một cách khoa học? Không có một thí nghiệm hay máy móc nào cho thấy khoa học là quan trọng. Thay vào đó, chúng ta dùng đến lý luận để chứng minh cho sự thật này và nhiều sự thật khác.
Ví dụ, khoa học có thể cho chúng ta biết thế giới làm sao, nhưng khoa học không thể cho chúng ta biết thế giới phải làm sao. Khoa học trao cho chúng ta máy bay và thuốc men, nhưng cũng trao cho chúng ta cả bom nguyên tử và khí độc thần kinh. Khoa học không thể cho chúng ta biết điều gì là tốt hay xấu bởi vì nó chỉ là một công cụ có thể được sử dụng cho cả điều tốt lẫn điều xấu. Chúng ta cần đến những công cụ suy tư khác, như triết học và kinh nghiệm cá nhân, để thấy được các sự thật của thế giới mà khoa học không thể nhận ra - kể cả những sự thật liên quan đến một ai hay điều gì đã làm nên thế giới.
MỘT NHÀ KHOA HỌC TIẾT LỘ GIỚI HẠN CỦA KHOA HỌC
Năm 1960, Ngài Peter Medawar đoạt giải Nobel về nghiên cứu cấy ghép nội tạng và mô khả thi. Ông cũng đã viết một cuốn sách có tựa đề Lời khuyên cho một khoa học gia trẻ tuổi, trong đó ông đã nói như sau:
“Không có cách nào nhanh hơn để một nhà khoa học tự làm mất uy tín của mình và của nghề nghiệp mình một cách đơn giản hơn khi khẳng định - đặc biệt là khi không được yêu cầu khẳng định dưới bất kỳ hình thức nào - rằng khoa học biết hay sẽ biết ngay câu trả lời cho mọi câu hỏi đáng hỏi.” [2]
Mặc dù không theo đạo, Medawar vẫn nói rằng chúng ta sẽ phải quay sang văn học và tôn giáo để có “câu trả lời phù hợp” cho những câu hỏi như “Mọi thứ đã bắt đầu như thế nào?” và “Tất cả chúng ta sống ở trên đời để làm gì?”
GIÁO HỘI CÔNG GIÁO CÓ PHẢN KHOA HỌC KHÔNG?
Không một chút phản khoa học, Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo (GLCG) - cuốn sách chính thức về giáo lý Công giáo - ca ngợi “nhiều công trình nghiên cứu khoa học giúp mở rộng tầm hiểu biết của chúng ta” (GLCG 283). Ví dụ, Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II nói với Viện hàn lâm Giáo hoàng về Khoa học của Vatican rằng thuyết tiến hóa thì “hơn cả một giả thuyết,” và Đức Bênêđictô XVI còn đi xa hơn nữa khi nói rằng đã có “nhiều bằng chứng khoa học ủng hộ thuyết tiến hóa.” [3]
Nhưng còn về ông Galileo thì sao? Giáo hội đã chẳng bức hại ông vì ông đã dạy rằng trái đất quay quanh mặt trời sao? Chẳng phải chuyện đó cho thấy Giáo hội Công giáo phản đối những khám phá khoa học mâu thuẫn với những gì được đức tin đưa ra sao?
Thứ nhất, Giáo hội Công giáo không lên án thuyết nhật tâm hay lấy mặt trời làm trung tâm trong thái dương hệ của chúng ta. Theo Bách khoa toàn thư Stanford trực tuyến về Triết học, vào thời điểm đó trong lịch sử “không có thái độ chính thức nào của Công giáo về hệ thống [nhật tâm] của Copernicus, và chắc chắn đó không phải là dị giáo.”[4] Nhiều nhà khoa học thời Galileo đã chấp nhận những lập luận của người Hy Lạp cổ đại về một trái đất đứng yên, những lập luận đó không bị bác bỏ. Ngày nay chúng ta có thể sử dụng vệ tinh để chứng minh trái đất quay quanh mặt trời, nhưng năm trăm năm trước, câu hỏi đó chẳng dễ được giải quyết một chút nào.
Thực ra, Galileo nghĩ rằng các hành tinh quay quanh mặt trời theo một đường tròn hoàn hảo, trong khi chúng thực sự có một quỹ đạo hình elip. Vì thế, lý thuyết của Galileo không thể giải trình cho hết mọi chuyển động có thể quan sát được của các hành tinh, đó là một lý do Giáo hoàng Urban VIII giục Galileo coi lý thuyết của ông là thăm dò. Đáng tiếc là Galileo đã chọn cách chế giễu giáo hoàng trong tác phẩm Cuộc Đối Thoại Liên Can đến Hai Thế Giới Hệ, trong đó có một nhân vật tên là Simplicio, có nghĩa là "Gã Khờ" trong tiếng Anh, đại diện cho quan điểm của giáo hoàng. Galileo cũng khẳng định rằng Kinh thánh sẽ phải được giải thích lại theo ánh sáng từ những phát hiện của ông, một kết luận nằm ngoài lĩnh vực chuyên môn của ông. Cả hai sai lầm này đã dẫn đến phiên tòa nổi tiếng của ông vào năm 1633.
Trái ngược với niềm tin phổ biến, Galileo không bị tra tấn, nhưng bị xem là "đáng nghi về dị giáo." Theo Francesco Niccolini, bạn ông, Galileo bị quản thúc tại gia nhưng được giao cho một người hầu phục vụ ông cho đến khi ông qua đời vì tuổi già.[5] Sau này Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã xin lỗi cho bất kỳ một bất công nào xúc phạm đến Galileo trong phiên tòa xét xử ông và khẳng định lại mối tương quan tích cực giữa Giáo hội và khoa học.
KHOA HỌC CÓ DẪN ĐẾN VÔ THẦN KHÔNG?
Mặc dù một số nhà khoa học thẳng thắn tình cờ lại là người vô thần, theo Trung tâm Nghiên cứu Pew 51 % các nhà khoa học tin vào Thiên Chúa hay một quyền lực cao hơn.[6] Đúng là các nhà khoa học có vẻ giống như các người vô thần hơn, nhưng Elaine Ecklund đã cho thấy trong cuốn sách của bà Khoa học so với Tôn giáo rằng chính khoa học không biến mọi người thành người vô thần; những người vô thần có khả năng theo đuổi sự nghiệp trong khoa học nhiều hơn.
Nghĩa là khoa học tự mình không có gì khiến nó không tương thích với tôn giáo. Một số đóng góp lịch sử vĩ đại nhất cho khoa học đến từ những người theo đạo, bao gồm các tu sĩ Công giáo như Gregor Mendel, người được gọi là “Cha đẻ của Di truyền học Hiện đại,” và các linh mục như Georges Lemaître, người được gọi là “Cha đẻ của thuyết Big Bang.”
Vì bản tính luôn thay đổi của khoa học, Giáo hội Công giáo chỉ dạy về các vấn đề liên quan đến niềm tin hay đạo đức. Giáo hội không xác nhận một cách bất khả ngộ các lý thuyết khoa học, mặc dù từ lâu giáo hội vẫn ủng hộ khoa học; chẳng hạn như giáo hội thời trung cổ tài trợ cho các nhà khoa học tạo ra lịch hiện đại, ngày nay Vatican vận hành một đài thiên văn lớn mà các nhà thiên văn học thế giới thường xuyên sử dụng.
Theo nhà sử học J. L. Heilbron, “Giáo hội Công giáo La mã đã hỗ trợ tài chính và xã hội cho việc nghiên cứu thiên văn học trong hơn sáu thế kỷ, từ sự phục hồi của kiến thức cổ đại vào cuối thời Trung Cổ cho đến Thời kỳ Khai sáng, nhiều hơn bất kỳ thể chế nào khác, và có thể nhiều hơn mọi thể chế khác.”[7]
NIỀM TIN LÀ GÌ?
Khi người ta nói, “Khoa học mâu thuẫn với đức tin,” họ thường định nghĩa đức tin là “tin mà không có chứng cứ” hay là “tin bất chấp cả lời lẽ của chứng cứ." Khoa học có thể mâu thuẫn với đức tin theo định nghĩa đó, nhưng không mâu thuẫn với sự hiểu biết truyền thống về đức tin.
Theo nghĩa rộng nhất, niềm tin chỉ là một loại tin tưởng mà chúng ta đặt vào một người hay một vật khác. Ví dụ, chúng ta có thể nói: “Tôi tin rằng John sẽ hoàn thành dự án của nhóm chúng ta." Ngay cả các nhà khoa học cũng có niềm tin rằng các quy luật tự nhiên sẽ vận hành theo cùng một cách ở mọi nơi và trong mọi lúc, mặc dù họ không thể chứng minh các quy luật tự nhiên sẽ luôn làm như thế.
Đối với người Công giáo, đức tin là “nhân đức thần học nhờ đó chúng ta tin vào Thiên Chúa và tin tất cả những gì Người đã nói và mặc khải cho chúng ta.”[8] Nếu Thiên Chúa thực sự hiện hữu (chúng ta sẽ xem xét ngay sau đây bằng chứng cho điều đó), thì việc mọi người tin tưởng, hay có niềm tin vào Thượng Đế, cũng hợp lý như khi chúng ta tin tưởng hay có niềm tin vào một ai đó. Niềm tin này bao gồm niềm tin vào những gì Thiên Chúa đã mặc khải cho một cá nhân qua một điều tương tự như cầu nguyện, hay đã công khai mặc khải qua những sự tương tự như Kinh thánh hay những giáo huấn của giáo hội.
HÃY DÙNG CÁC HẠN TỪ CHO ĐÚNG
• Niềm tin (ý nghĩa thường dùng): Một lòng tin chúng ta đặt nơi một người hay vật dựa trên bằng chứng và kinh nghiệm.
• Đức tin (ý nghĩa tôn giáo): Tin vào lời hứa của Thiên Chúa dựa trên bằng chứng và kinh nghiệm về sự mặc khải của Thiên Chúa.[9]
Nhưng phải chăng có đức tin có nghĩa là bạn không có chứng cứ cho những gì bạn tin? Rốt cuộc, nếu có đủ bằng chứng, bạn sẽ không cần đến niềm tin. Nhưng hãy xem đến điều này: theo Hiệp hội nhảy dù Hoa Kỳ, 99.99 phần trăm người nhảy dù sống sót sau cú nhảy của họ. Giờ đây, hãy tưởng tượng bạn đang đeo một chiếc dù mà bạn biết là được đóng gói cẩn thận và bạn bước về phía cửa máy bay. Khi nhìn xuống mặt đất hai dặm dưới chân và nhìn thấy đỉnh các đám mây bay ngang qua, tôi hỏi bạn điều này: “Bạn có lo lắng không?”13
Có lẽ là có! Mặc dù có rất nhiều bằng chứng rằng bạn sẽ sống sót khi nhảy ra khỏi một chiếc máy bay bạn vẫn cần tin vào các bằng chứng đó. Bạn vẫn cần thực hiện một “cú nhảy của niềm tin." Đây không phải là một cú nhảy mù quáng hay một niềm tin không bằng chứng. Đó là một niềm tin hợp lý khi tin vào một kết luận dựa trên trọng lượng của bằng chứng.
Cùng với suy tư đó, chúng ta hãy xem đến bằng chứng cho chân lý làm nền tảng cho Đức tin Công giáo: Thiên Chúa hiện hữu.
TẠI SAO CHÚNG TÔI TIN: KHOA HỌC
• Khoa học là một công cụ chúng ta sử dụng để khám phá sự thật về các thực tại, nhưng đó không phải là công cụ duy nhất của chúng ta, bởi vì công cụ đó chịu giới hạn trong việc mô tả thế giới vật chất, tự nhiên.
• Chúng ta phải sử dụng các “công cụ tư duy” khác, như lập luận logic, để nghiên cứu những gì có thể nằm ngoài thế giới vật chất, tự nhiên.
• Đức tin không mâu thuẫn với khoa học vì đức tin không phản đối bằng chứng. Đức tin là niềm tin chúng ta đặt vào một điều gì đó và, theo nghĩa tôn giáo, đó là niềm tin đặt vào lời hứa của Thiên Chúa.
[1] Thánh Thomas Aquinas, Summa Contra Gentiles, 1:64. [2] P. B. Medawar, Lời khuyên cho một nhà khoa học trẻ (New York: Basic Books, 1979), 31. [4] Sheila Rabin, “Nicolaus Copernicus,” trong Edward N. Zalta, chủ biên, The Stanford Encyclopedia of Philosophy, Thu 2010 ed., plato.stanford.edu/archives/fall2010/entries/copernicus/. [5] Điều này được tìm thấy trong các bức thư ngày 13 tháng 2 và ngày 16 tháng 4 năm 1633 của Niccolini gửi cho vua xứ Tuscany. [7] J. L. Heilbron, The Sun in the Church: Cathedrals as Solar Observatories (Cambridge: Harvard University Press, 1999), 3. [8] Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo (GLCG) 1814. Sách Giáo lý là bản tóm tắt những gì người Công giáo tin. [9] Cũng xem GLCG 142-165 để có một mô tả toàn diện hơn về đức tin theo quan điểm Công giáo.
[10] J. L. Heilbron, The Sun in the Church: Cathedrals as Solar Observatories (Cambridge: Harvard University Press, 1999), 3. [11] Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo (GLCG) 1814. Sách Giáo lý là bản tóm tắt những gì người Công giáo tin.
[12] Cũng xem GLCG 142-165 để có một mô tả toàn diện hơn về đức tin theo quan điểm Công giáo.
[13] Tôi nợ triết gia Timothy McGrew ví dụ này.