20:27 EDT Thứ sáu, 22/09/2023

Trang nhất » Chuyên mục » Suy niệm Lời Chúa

Lời Chúa Tuần Thánh _ gia vị cho bài giảng

Thứ bảy - 01/04/2023 03:55
LỜI CHÚA TUẦN THÁNH
GIA VỊ CHO BÀI GIẢNG
CHÚA NHẬT - Năm ANăm BNăm C

NGÀY THƯỜNG – Thứ Hai - Thứ Ba - Thứ Tư - Thứ Năm - Thứ SáuThứ Bảy 


LỄ LÁ năm A (bài ngắn)


C. Bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Matthêu.
C. Khi ấy, Chúa Giêsu đứng trước tổng trấn †Phongxiô Phi-latô, và quan hỏi Người rằng:
S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?"
C. Chúa Giêsu đáp:
LM: "Ông nói đúng!"
C. Nhưng khi các thượng tế và kỳ lão tố cáo Người thì Người không trả lời chi cả. Bấy giờ Philatô bảo Người:
S. "Ông không nghe thấy tất cả những điều họ tố cáo ông sao?"
C. Chúa Giêsu cũng không đáp lại về một điều nào, khiến quan tổng trấn hết sức ngạc nhiên.

Vào mỗi dịp lễ trọng, quan tổng trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Lúc ấy có một phạm nhân nổi tiếng tên là Baraba. Vậy Philatô nói với dân chúng đã tụ tập lại đó rằng:
S. "Các ngươi muốn ta phóng thích ai, Baraba hay Giêsu mà người ta vẫn gọi là Kitô?"
C. Quan biết rõ chỉ vì ghen ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy trong khi quan ngồi xét xử, bà vợ sai người nói cùng quan rằng:
S. "Xin ông đừng can thiệp gì đến vụ người công chính ấy, vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy.”

C. Nhưng các thượng tế và kỳ lão xúi giục dân xin tha Baraba và giết Chúa Giêsu. Quan lại lên tiếng hỏi họ:
S. "Trong hai người đó các ngươi muốn ta phóng thích ai?"
C. Họ thưa:
S. "Baraba!"
C. Philatô hỏi:
S. "Vậy đối với Giêsu gọi là Kitô, ta phải làm gì?"
C. Họ đồng thanh đáp:
S. "Đóng đinh nó đi!"

C. Quan lại hỏi:
S. "Nhưng người này đã làm gì nên tội?"
C. Chúng càng la to:
S. "Đóng đinh nó đi!"
C. Bấy giờ Philatô thấy mất công, lại thêm náo động, nên ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và nói:
S. "Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi.”
C. Toàn dân đáp:
S. "Hãy để cho máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cái chúng tôi.”

C. Bấy giờ quan phóng thích Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá.
Bấy giờ lính tổng trấn liền điệu Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ đội lại chung quanh Người. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng:
S. "Tâu vua dân Do-thái!"
C. Đoạn họ khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy đập trên đầu Người. Khi đã chế nhạo Người xong, họ lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc đi ra, họ gặp một người thành Xyrênê tên là Simon, liền bắt ông vác đỡ thánh giá cho Người.

Họ đi đến một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với mật đắng, Người chỉ nếm qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên thập giá rồi, họ rút thăm chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng: "Chúng đã chia nhau áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm.” Rồi họ ngồi lại canh Người. Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau: "Người này là Giêsu, vua dân Do-thái.” Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai tên trộm cướp, một tên bên hữu, một tên bên tả.

Những người đi ngang qua, lắc đầu chế diễu Người và nói:
S. "Kìa, ngươi là kẻ phá đền thờ và xây cất lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi!"
C. Các thượng tế cùng luật sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng:
S. "Nó đã cứu được kẻ khác mà không cứu nổi chính mình! Nếu nó là vua dân Do-thái, thì bây giờ hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta sẽ tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài thương nó thì bây giờ Ngài hãy cứu nó, vì nó nói: "Ta là Con Thiên Chúa!"

C. Cả những tên cướp bị đóng đinh trên thập giá với Người cũng nhục mạ Người như thế. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. Vào khoảng giờ thứ chín thì Chúa Giêsu kêu lớn tiếng:
LM: "Eli, Eli, lamma sabachtani!"
C. Nghĩa là:
LM: "Lạy Chúa con, lạy Chúa con! sao Chúa bỏ con!"
C. Có mấy người đứng đó nghe vậy nói rằng:
S. "Nó gọi tiên tri Elia.”
C. Lập tức một người trong bọn chạy đi lấy một miếng bọt biển, nhúng đầy dấm và cuốn vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại bảo:
S. "Hãy chờ xem Elia có đến cứu nó không?"
C. Đoạn Chúa Giêsu lại kêu lên lớn tiếng và trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

Bỗng nhiên màn đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra. Các mồ mả mở tung và xác của nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người. Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng ông canh giữ Chúa Giêsu, thấy đất chuyển động và các sự xảy ra, thì thất kinh sợ hãi và nói:
S. "Đúng người này là Con Thiên Chúa.” Đó là lời Chúa.

TRUYỆN KỂ

1. Chứng cớ của tình yêu
 
Thời Salômôn, có hai bà mẹ đem đến nhà vua một đứa bé để xin được phân xử. Bà nào cũng nhận đó là con mình mà chẳng có chứng cớ gì cả.
 
Để biết ai là người mẹ thật, nhà vua ra lệnh chia đứa trẻ còn sống ra làm hai, cho mỗi người một nửa. Bà mẹ thật của đứa trẻ liền thưa ngay với vua: "Ôi! thưa chúa thượng tôi, xin ngài cho chị ấy đứa trẻ còn sống; còn giết chết nó, thì xin đừng!”
 
Tình yêu sẵn lòng chịu thua thiệt đã cho biết ai là mẹ thật.
 
Còn Đức Kitô… Người “đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,7-8).
 
Cái chết, và sự tự hạ đến tận cùng vì yêu là bằng chứng cho thấy Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Đấng Cứu Thế, một bằng chứng đầy sức thuyết phục cho tiếng nói và sự sống mãnh liệt của Thiên-Chúa-là-tình-yêu nơi Đức Kitô.
 
Thập giá là nơi ngôi vị Thiên Chúa trong Đức Kitô chia sẻ thân phận khốn cùng của con người cách triệt để nhất, và cũng là nơi bản tính con người sống cách mãnh liệt nhất sự sống của Thiên-Chúa-là-tình-yêu.
 
Chết vì yêu là sức mạnh của Đức Kitô. Ngày chịu đóng đinh cũng là ngày Đức Kitô bắt đầu vương quyền Nước Trời với lời tuyên tín của viên đại đội trưởng: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa.”
 
2. Ta là sự thật
 
Nước Sở có người họ Hoà, được một hòn ngọc ở trong núi, đem dâng Lê Vương. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói: “Đá, không phải ngọc.”
 
Vua cho họ Hoà là nói dối, sai chặt chân trái.
 
Đến khi Vũ vương nối ngôi, người họ Hoà lại đem ngọc đến dâng. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói: “Đá, không phải ngọc.”
 
Vua lại cho họ Hoà nói dối, sai chặt nốt chân phải.
 
Đến khi Văn Vương lên ngôi, người họ Hoà ôm hòn ngọc, khóc ở chân núi Sở Sơn suốt ba ngày ba đêm đến chảy máu mắt ra. Vua thấy thế, sai người đến hỏi. Người họ Hoà thưa: “Tôi khóc không phải là thương hai chân tôi bị chặt, chỉ thương về nỗi ngọc mà cho là đá, nói thật mà cho là nói dối.”
 
Vua bèn sai người xem lại cho rõ kỹ, thì quả nhiên là ngọc thật, mới đặt tên gọi là “Ngọc bích họ Hoà.” (Cổ học tinh hoa)
 
“Ngọc mà cho là đá” chỉ nói lên phần nào cái thực tại bóng tối che lấp sự thật trong lịch sử nhân loại! Đức Kitô bị đóng đinh bởi những người muốn chống lại sự thật, muốn lên án trước khi xét xử: “các thượng tế và toàn thể Thượng Hội đồng thì tìm chứng gian buộc tội Đức Giêsu để lên án tử hình”; bởi những người không muốn tìm sự thật, chỉ biết làm theo những lời xúi giục của các thượng tế và kỳ mục: “Tổng trấn lại nói: ‘Thế ông ấy đã làm điều gì gian ác?’ Họ càng la to: Đóng đinh nó vào thập giá.”
 
3. Tình cảm nhất thời
 
Thủ tướng nước Anh, ông Winston Churchill là một nhà chính trị nổi tiếng thế giới. Ngày kia, sau khi đọc bài diễn văn trước một cử tọa khoảng mưới ngàn người, ông được mọi người hoan hô nhiệt liệt. Một người bạn đã hỏi ông: “Thưa thủ tướng, ngài có cảm động khi dân chúng hoan hô ngài không?” Thủ tướng Churchill trả lời: “Không, tôi không cảm động, vì không hẳn thực sự là như thế. Tôi biết rằng sẽ có một trăm ngàn người đến nhìn xem tôi khi tôi bị treo lên!”
 
Thủ tướng Churchill nhận ra được những lời tung hô của dân chúng chỉ là những tình cảm nhất thời. Họ hoan hô ông một cách cuồng nhiệt, nhưng một lúc nào đó, họ cũng có thể treo cổ ông lên!
 
Trong ngày Lễ Lá hôm nay, chúng ta có thể nhìn thấy sự thật phũ phàng đó ở nơi bản thân Chúa Giêsu. Khi Ngài tiến vào thành Giêrusalem, dân chúng tung hô Ngài một cách tưng bừng: “Hoan hô Con Vua Đavit, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến.” Cả thành phố náo động. Dân chúng trải áo xuống đường, chặt cành cây trải lối đi để đón rước Chúa. Người ta còn ca tụng Ngài là một vị tiên tri.
 
Tuy nhiên, chỉ ít ngày sau, lòng người đổi thay, cũng đám đông dân chúng ấy đã hô to lời kết án: “Đóng đinh nó vào thập giá, đóng đinh nó vào thập giá!” Thay vì trải áo xuống đường cho Chúa đi, quân lính đã lột áo Chúa. Thay vì trải cành cây xuống đường, họ đặt cây thập giá lên vai Chúa và đóng đinh Ngài như một tội phạm nguy hiểm. Thay vì ca tụng Chúa như một vị tiên tri, họ lên án Chúa như tên phản loạn.
 
4. Tôi bị treo lên
 
Cha thánh Piô Năm Dấu là vị linh mục được diễm phúc Chúa cho in năm dấu thánh trên thân thể: 2 dấu đinh nơi đôi tay, 2 dấu đinh nơi đôi chân và vết thương nơi cạnh sườn. Những vết thương ấy luôn rỉ máu và làm ngài đau đớn.
 
Một ngày nọ, có người hỏi ngài: “Mỗi khi cha dâng lễ, có lẽ cha rất đau đớn vì phải đứng trên đôi chân bị đóng đinh?” Ngài trả lời: “Khi tôi dâng lễ, không phải tôi đứng trên đôi chân mình, mà tôi đang bị treo lên.”
 
Trong Tuần Thánh, nhất là trong Tam Nhật Vượt Qua, chúng ta có cơ hội đi lại con đường thương khó của Chúa, được hiệp thông với sự đau khổ của Ngài, được nhận ra Ngài thương chúng ta biết bao khi chịu chết vì chúng ta. Chúng ta hãy sẵn sàng “bị treo lên” thập giá cùng với Ngài, giữa đớn đau khổ cực đời thường. Chỉ khi nào ta “bị treo lên”, ta mới vươn lên tới đỉnh vinh quang đời đời.
 
5. Cánh lá phản bội
 
Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh “Ba Thập Giá.” Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu trổi lên một cách ngạo nghễ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét… Tác giả như muốn nói rằng: không một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
 
Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt như mất hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ cho các nhà chuyên môn chuẩn đoán rằng đó chính là khuôn mặt của danh họa Rembrandt, tác giả của bức tranh này.
 
Tại sao giữa đám đông của những kẻ đằng đằng sát khí khi tham dự vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembrandt, nhà danh họa lại chen vào khuôn mặt của mình?
 
Câu trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về sự hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính ông. Rembrandt muốn thú nhận rằng: chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói với mỗi người chiêm ngắm bức tranh rằng, họ cũng dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
 
6. Trong đau khổ mà thấy tình yêu
 
Một thanh niên tuổi ngoài 20 bị ung thư gan. Chứng bệnh hiểm nghèo cùng với cơn đau đã nhiều lần làm anh hoảng loạn, những lúc ấy anh không tiếc lời kêu trách Thiên Chúa, nguyền rủa các bậc sinh thành và bản thân. Sau khi lãnh nhận bí tích xức dầu, anh sống thêm được gần ba tháng nữa, nhưng thái độ hoàn toàn đổi khác. Có người hỏi:
 
- Làm thế nào anh chịu được những cơn đau như thế?
 
Chỉ vào cây Thập Giá treo trước mặt, anh trả lời:
 
- Nhờ nhìn lên Đấng chịu chết treo trên kia.
 
Nhờ chiêm ngắm Đức Giêsu trên thập giá, chàng thanh niên được ơn đổi mới cõi lòng, nên cũng thay đổi cách đón nhận đau đớn, thử thách và cái chết. Hai ngàn năm qua, nhờ Đấng chịu đóng đinh trên khổ giá mà biết bao tâm hồn được nâng đỡ trong những cơn gian nan, và tìm ra lẽ sống giữa những bế tắc của cuộc đời. Điều ấy không lạ, vì đọc các trình thuật kể lại cuộc thương khó của Đức Giêsu, chúng ta thấy nhiều người được ơn hoán cải nhờ gặp Đấng đã chết để muôn người được sống.
 
Kẻ trộm bị đóng đinh bên hữu Đức Kitô, dù từng làm điều gian ác, nhưng anh sớm nhận ra thân phận tội lỗi của mình khi chịu cùng một cực hình với Đức Giêsu; chẳng những thế, vì cảm biết Người là bậc thánh nhân, anh lên tiếng bênh vực và tha thiết kêu xin: "Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!" Và Người đã trả lời: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng." (Lc 23, 40-43)


7. Chính là Ngài
 
Sau khi Đavít phạm tội ngoại tình với Bátsêva và sắp đặt để giết chồng bà là Urigia, Thiên Chúa đã sai tiên tri Nathan đến để tố cáo tội lỗi của Đavít.
 
Nathan kể câu chuyện về một người giàu có, mặc dù có nhiều gia súc, vẫn quyết định bắt giết con chiên cái của người hàng xóm nghèo để dùng bữa với vị khách (x. 2 Sm 12,1tt). Điều này khiến Đavít tức giận và khiến ông phải thốt lên: “Có Đức Chúa hằng sống, kẻ đã làm điều này thật đáng chết.”
 
Ngay lúc đó, Nathan làm Đavít sửng sốt khi nói: “Kẻ đó chính là ngài!” Trong khi lắng nghe Bài Thương Khó, chúng ta có thể bị cám dỗ trở nên phẫn nộ với Giuđa, Philatô, Phêrô, Hêrôđê, những người lính và rất nhiều người khác. Nhưng Chúa đã cho chúng ta câu chuyện này để suy nghĩ, giống như Nathan đã nói với Đavít: “Chính ông là người đó!”
 
Bạn chính là Giuđa! Bạn là Philatô! Bạn là Phêrô! Đã có những cuộc tranh luận dai dẳng qua nhiều thế kỷ về việc cuối cùng ai phải chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu. Một số người nói người Do Thái. Những người khác nói rằng người La Mã. Người khác nói cả hai. Nhưng Công đồng Vatican II, dựa trên cách hiểu truyền thống từ các bức thư của thánh Phaolô và những giáo huấn sớm nhất của Giáo hội, đã nói rằng – mặc dù rõ ràng là những hành động cấu kết của các nhà lãnh đạo Do Thái và chính quyền La Mã – TẤT CẢ CHÚNG TA đã giết Chúa Giêsu vì tội của chúng ta phạm.
 
* Chúa Giêsu đã chết vì tội lỗi của chúng ta. Giáo hội mời gọi chúng ta hãy nhìn vào chính chúng ta, bởi vì trong cuộc đời của mình, chúng ta đã hành động giống như những người đóng đinh Chúa và hành động đó cũng gây ra những hậu quả giống như họ. (Cha Roger Landry)
 
8. Như một con chiên
 
Andy sống ở thành phố Jersey. Cha cậu làm việc cho một công ty lớn đóng gói thịt. Cha của Andy tận dụng mọi cơ hội để giáo dục con trai mình theo hướng thực tế.
 
Một ngày nọ, khi cậu bé được khoảng mười tuổi, ông đưa cậu đi tham quan các nhà đóng gói thịt để chỉ cho cậu cách người ta giết động vật để bán thịt. Người ta gọi những nơi này là “lò mổ." Đó là một công việc kinh doanh cần thiết nhưng đầy máu me, không phải lúc nào cũng dễ chịu đối với một người khách.
 
Andy đặc biệt chú ý đến cách phản ứng của các loại động vật khác nhau trước cái chết cận kề. Những con bò thịt và bê vùng vẫy và rống lên vì sợ hãi. Lợn thì kêu eng éc, vùng vẫy tìm cách thoát thân. Nhưng lũ chiên thì khác. Chúng chỉ đơn giản là đứng đó nhu mì và im lặng, không phản kháng lại những kẻ giết chúng.
 
Khi Andy lớn lên, anh trở thành linh mục. Anh không bao giờ quên những gì anh đã thấy về những con chiên phản ứng trước cái chết. Và anh thường trình bày trong các bài giảng Tuần Thánh về việc Chúa Giêsu đã chết như là “Chiên Con” một cách thích hợp như thế nào. Người Do Thái vào thời Kinh Thánh biết rất rõ cách chiên phản ứng trong hoàn cảnh này. Chiên và dê là vật nuôi chính của họ. Isaia đã nói lên kinh nghiệm khi ông báo trước trong thị kiến về việc Đấng Messia sẽ chết như thế nào: “Ngài như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông lông, Người làm thinh, chẳng hề mở miệng” (Is 53,7).
 
* Hôm nay khi chúng ta bước vào Tuần Thánh, chúng ta hãy ghi nhớ biểu tượng này về Chúa Kitô là một con chiên, và trong câu chuyện về cuộc khổ nạn và cái chết của Người, hãy xem điều đó đã được ứng nghiệm chính xác như thế nào. (Cha Robert F. McNamara).
 
9. Con lừa Chúa Giêsu cưỡi
 
Có một câu chuyện ngụ ngôn cổ kể về con lừa đã đưa Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem trong Chúa nhật Lễ Lá. Chú lừa con nghĩ rằng cuộc rước được tổ chức là để tôn vinh nó. “Tôi là một con lừa độc nhất vô nhị!” Con vật có thể đã nghĩ một cách phấn khích như vậy.
 
Khi nó hỏi mẹ nó rằng liệu nó có thể đi một mình trên con phố vào ngày hôm sau để được tôn vinh một lần nữa hay không, mẹ nó nói: “Không, con chẳng là gì nếu không có Ngài đã cưỡi con.”
 
Năm ngày sau, con lừa con nhìn thấy một đám người rất đông trên đường phố. Hôm đó là thứ sáu Tuần Thánh, và những người lính đang đưa Chúa Giêsu đến đồi Canvê. Chú lừa con không thể cưỡng lại sự cám dỗ về một buổi cung nghinh hoàng gia khác. Nó bỏ qua lời cảnh báo của mẹ và phóng nhanh ra đường, nhưng phải bỏ chạy vì bị quân lính đuổi theo và mọi người ném đá nó tới tấp. Vì vậy, con lừa con cuối cùng đã học được bài học rằng nó chỉ là một con lừa tội nghiệp nếu không có Chúa Giêsu cưỡi lên.
 
* Khi bước vào Tuần Thánh, các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại cuộc sống của mình để xem liệu chúng ta có mang Chúa Giêsu trong mình và làm chứng cho Ngài qua cuộc sống của chúng ta hay không.
 
10. Hoan hô Marconi
 
Khi con tàu Titanic chìm trong vực thẳm của Đại Tây Dương vào ngày 15 tháng 4 năm 1912, 1517 người đã thiệt mạng. Tuy nhiên, 705 người đã thoát chết nhờ liên lạc vô tuyến được thiết lập giữa tàu Titanic và tàu Carpathia.
 
Khi Carpathia, một tàu hơi nước chở khách xuyên Đại Tây Dương nhận được tin nhắn vô tuyến, nó đã chạy thật nhanh tới để đón những người sống sót trên xuồng cứu sinh. Khi tàu Carpathia đến New York, Marconi, người đã phát minh và giới thiệu liên lạc vô tuyến, đã có mặt tại cảng để tiếp nhận những người sống sót. Khi những người sống sót nghe tin Marconi ở đó, họ đã ca ngợi ông là “vị cứu tinh” của họ và họ đã đổ xô đến để gặp ông.
 
* Hai ngàn năm trước, người ta đã ca ngợi Chúa Giêsu ở Giêrusalem và họ đổ xô đi xem Người khi biết Người đến để cứu họ khỏi tội lỗi và ban cho họ sự sống mới. (Cha Jose. P, CMI).
 
11. Thân phận nô lệ
 
Có một sự kiện trong cuộc đời của thầy dòng Đa Minh người da đen, thánh Martinô de Porres, rất đáng được nhắc lại vào Chúa nhật Thương Khó. Nhiều độc giả đã biết được điều gì đó về sư huynh này ở Lima, nước Peru.
 
Ngài sinh năm 1579, mất năm 1639, và được tôn vinh là thánh năm 1962. Trở lại thời thuộc địa của nước Peru, những người Tây Ban Nha cầm quyền đã đưa hàng nghìn người da đen châu Phi đến đây làm nô lệ. Một số nô lệ cuối cùng đã được tự do, còn hầu hết thì không. Ở Nam Mỹ như ở Hoa Kỳ việc kỳ thị chủng tộc rất nặng. Martinô đã tóm tắt lại bằng chính con người của mình, những tai ương của chủng tộc da đen bị bắt làm nô lệ. Mẹ của ngài, bà Anna Velasquez, là một phụ nữ da đen tự do; cha ngài là một nhà quý tộc Tây Ban Nha.
 
Khi bà Anna cho Juan de Porres xem đứa con trai bé bỏng của mình, ông thốt lên: “Tôi không chấp nhận nó là con của tôi. Nó đen đủi quá!” Tuy nhiên cuối cùng, ông cũng nhìn nhận quan hệ cha con hợp pháp của mình với Martinô. Nhưng ông rất ít giúp đỡ con trai mình, vì vậy Martinô phải sống như một người con lai ở rìa xã hội Lima. Một người lai nữa có thể vấy bẩn cuộc sống xã hội. Và ngài đã chọn cuộc đời tu trì.
 
Gia nhập Dòng Đa Minh, ngài sống hết mình trong sự khiêm nhường và phục vụ người khác. Một ngày nọ, người cư sĩ tốt lành này biết được rằng bề trên của mình phải đối mặt với tình trạng thiếu tiền để điều hành tu viện, đã ra chợ bán một số vật có giá trị nhất của ngôi nhà. Martinô chạy theo vị bề trên và đuổi kịp ngài trước khi ngài đến chợ. Vị thánh thốt lên: “Xin đừng bán tài sản của chúng ta, bán con đi! Dù sao thì con cũng không cần được giữ lại; con mạnh mẽ và có thể làm việc!” Bề trên vô cùng cảm động, lắc đầu: “Con trở về tu viện.” Ngài nhẹ nhàng nói: “Con không phải để bán!” Vì vậy, Martinô vẫn được tự do.
 
* Vị tu sĩ cũng đã cố gắng chân thành noi gương Chúa Kitô đã “trút bỏ chính mình và mặc lấy hình hài nô lệ… sẵn sàng chấp nhận ngay cả cái chết, chết trên cây thập giá.” (Pl 2, 7.8) Bài đọc hai hôm nay. (Cha Robert F. McNamara).
 
12. Vua Giêsu tiến vào thành thánh
 
Tác giả người Hy Lạp Plutarch mô tả cách các vị vua khải hoàn tiến vào một thành phố. Ông kể về một vị tướng La Mã, Aemilius Paulus, người đã giành chiến thắng quyết định trước quân Macêđônia.
 
Khi Aemilius quay trở lại Rôma, cuộc rước khải hoàn tôn vinh ông kéo dài ba ngày. Ngày đầu tiên được dành để trưng bày tất cả các tác phẩm nghệ thuật mà Aemilius và quân đội của ông đã cướp được. Ngày thứ hai được dành cho tất cả vũ khí của quân Macêđônia mà họ đã chiếm được. Ngày thứ ba bắt đầu với phần còn lại của chiến lợi phẩm được kéo với 250 con bò đực, có sừng dát vàng. Số tiền này tương đương hơn 17.000 cân vàng.
 
Tiếp sau đó là vị vua bị bắt và bị sỉ nhục của Macêđônia cùng với đại gia đình của ông ta. Cuối cùng, Aemilius tự mình tiến vào thành Rôma, cưỡi trên một cỗ xe lộng lẫy. Aemilius mặc một chiếc áo choàng màu tím, được đính các lá vàng. Ông cầm vòng nguyệt quế của mình trên tay phải. Ông đứng trên một chiếc xe, tiến đi cùng với một dàn hợp xướng lớn hát những bài quân nhạc hùng tráng, ca ngợi những thành tích quân sự của Aemilius vĩ đại.
 
* Thưa các bạn, đó là cách một vị vua trần gian tiến vào một thành phố, nhưng còn Vua các vua thì sao? Người chỉ cưỡi trên một con lừa con theo lời ngôn sứ Dacaria đã mô tả. Vua các vua, Đấng Messia, đến không phải trên một con chiến mã oai hùng, mà cưỡi một con lừa khiêm tốn.
 
13. Thập giá qua nhiều thế kỷ
 
Cho đến thế kỷ thứ năm sau Công nguyên, các Kitô hữu đầu tiên thường tránh trưng bày thập giá có thân thể của Chúa Giêsu. Thật sự, ngay cả những cây thánh giá trần cũng hiếm khi được trưng bày cho đến thế kỷ thứ tư sau Công nguyên. Như J. H. Miller đã giải thích, có nhiều lý do khiến Giáo hội miễn cưỡng dựng hình tượng cây thánh giá công khai.
 
Đối với nhiều người Do Thái và dân ngoại, thập giá phô bày sự mâu thuẫn dường như không thể dung hòa của niềm tin Kitô giáo, theo đó một người bị đóng đinh cũng là vị Thiên Chúa. Khi các tà giáo khác nhau tấn công vào thần tính hoặc nhân tính của Chúa Kitô thì biểu tượng cây thập giá dường như càng làm trầm trọng thêm cuộc xung đột và đối kháng tư tưởng ấy. Hệ quả là hình ảnh thập giá đã bị tránh né.
 
Phải đến thế kỷ thứ tư (dưới thời trị vì của Constantine), thập giá mới bắt đầu xuất hiện ở mọi nơi trước công chúng như là biểu tượng riêng của Kitô giáo. Mặc dù xuất hiện rộng rãi trong nghệ thuật và kiến trúc Kitô giáo, thập giá vẫn là một biểu tượng đa chiều ý nghĩa. Nơi xà ngang của nó, cái chết giao thoa với sự sống; tội lỗi gặp được ơn cứu rỗi; sự quy phục nối liền với chiến thắng; trần gian kết nối với siêu việt. Thập tự giá phô bày vừa những khía cạnh hèn hạ nhất của thân phận con người vừa phản ánh vẻ cao cả và uy nghiêm nhất của thần tính.
 
* Như nhà thần học Karl Rahner đã từng giải thích: “Thập giá Chúa Kitô cho thấy rõ nhất tội lỗi thực sự là gì. Thập giá Chúa Kitô đã không ngần ngại mở toang điều mà thế gian vẫn muốn giấu kín cho chính nó: rằng nó đã nuốt chửng Con Thiên Chúa trong tội lỗi mù quáng điên rồ- một tội lỗi mà sự căm ghét độc ác đã thực sự bùng cháy tiêu tan khi được tiếp xúc với tình yêu Thiên Chúa."
 
14. Bỏ Chúa hay bỏ việc
 
Constantine là đại hoàng đế La Mã đầu tiên theo Kitô giáo. Cha của ông, Constantius I, người kế vị Điôclêtianô lên ngôi hoàng đế vào năm 305 sau Công nguyên, là một người ngoại giáo nhưng có trái tim ôn hòa đối với các Kitô hữu.
 
Người ta kể rằng sau khi Constantine lên ngôi, ông đã phát hiện ra rằng nhiều người theo Kitô giáo đã nắm giữ những công việc quan trọng trong chính phủ và trong triều đình. Vì vậy, ông ban hành một mệnh lệnh hành pháp cho tất cả những Kitô hữu đó: “Hoặc là các bạn từ bỏ Chúa Kitô hoặc từ bỏ công việc.” Phần lớn các Kitô hữu đã bỏ công việc của họ chứ không bỏ Chúa. Chỉ có một số kẻ hèn nhát từ bỏ tôn giáo vì sợ mất việc làm.
 
Hoàng đế hài lòng với đa số những người đã thể hiện sự can đảm của họ và giao lại công việc cho họ trong khi ông đuổi hết những người đã cam tâm bỏ lòng trung thành với Chúa để giữ công việc. Ông nói với họ: các bạn không trung thành với Chúa của các bạn, thì các bạn cũng không trung thành với tôi!”
 
* Hôm nay chúng ta cùng với một đám đông vô danh nô nức rước Chúa vào Thành Thánh để đi tới những ngày đau khổ, chúng ta có dám đứng lên ủng hộ Chúa khi Người bị tuyên án tử hình không?
 
15. Dấu thập trên cổ con lừa
 
Dù sách Tin Mừng không ghi rõ, chúng ta biết rằng đây không phải là chuyến cưỡi lừa đầu tiên của Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem. Bản văn của Mátthêu không trình bày chi tiết về việc Giuse đã cùng Maria đi Ai Cập và trở lại Nazarét bằng phương tiện gì. Tin Mừng Luca cũng không mô tả cách Maria và Giuse hành trình đến Bêlem như thế nào. Nhưng tất cả chúng ta đều lưu dấu trong đầu hình ảnh Mẹ Maria mang thai ngồi trên lưng một con lừa khỏe mạnh.
 
Tâm trí của chúng ta in rõ hình ảnh Mẹ Maria ẵm Chúa ngồi trên con vật đó để chạy trốn đến Ai Cập, rồi hành trình trở về nhà tại Nazarét sau khi vua Hêrôđê chết. Truyền thống của Giáo hội từ lâu đã cho rằng để tôn vinh sự phục vụ khiêm nhường của con lừa đối với Chúa Giêsu, con vật đã được khen thưởng bằng một “dấu ấn hình thập giá” vĩnh viễn, bởi đó hầu hết các con lừa đều có hình chữ thập đen đặc trưng trên vai vững chắc của chúng.
 
* Nếu sứ mệnh của Giáo hội là mang Chúa Kitô đến trong thế gian, thì có thể nói mỗi chúng ta được kêu gọi trở thành một con lừa, tận tụy, trung thành, vượt khó…và tiến bước!
 
16. Con lừa biết nói
 
Có bao giờ bạn thắc mắc tại sao lừa là con vật duy nhất trong Kinh Thánh biết nói? Karl Barth (một nhà thần học Tin Lành nổi tiếng) trong bữa tiệc sinh nhật lần thứ 80 của mình đã đưa ra lời chứng của mình. Ông nói: “Kinh Thánh có nói về một con lừa, hay nói đúng hơn là một con lừa cái, nó biết dùng lời nói phản đối ông Bơliam đánh nó (Ds 22,28-30). Còn theo sách Dacaria 9,9 một con lừa được diễm phúc mang Chúa Giêsu đến Giêrusalem.”…
 
“Nếu tôi làm được điều gì đó trong cuộc sống này để phục vụ Chúa và tha nhân thì tôi cũng làm như thân phận một con lừa: mang một gánh nặng những suy tư thần học và những trải nghiệm thiêng liêng để trình bày về đời sống Kitô hữu, mà các môn đệ của Chúa nói: “Thầy chúng tôi cần nó!” Vì vậy, dường như Chúa đã vui lòng sử dụng tôi vào lúc này, tôi sẵn sàng phục vụ hết sức mình…”
 
* ĐHY Roger Etchegaray (1922-1919) cũng đã viết một cuốn sách “Comme un âne, j’avance” (như một con lừa tôi tiến bước) để nói lên thái độ phục vụ của mình cống hiến cho Giáo hội. Quả thật, những tư tưởng lớn đều gặp nhau!
 
17. Giúp đỡ
 
 (Chuyện vui)
 
Có một câu chuyện xưa kể về một nhà giảng thuyết nọ gặp vấn đề khó khăn trong sứ vụ và quyết định rời bỏ thánh chức. Nhưng ông gặp khó khăn khi tìm một công việc khác. Cuối cùng, trong cơn tuyệt vọng, ông nhận một công việc tại sở thú địa phương.
 
Con khỉ đột ở đó đã chết, và vì nó là con vật yêu thích của bọn trẻ, các nhà quản lý vườn thú đã quyết định cho ông mặc trang phục khỉ đột cho đến khi họ tìm được con vật khác. Trước sự ngạc nhiên của nhiều người, nhà cựu giảng thuyết yêu thích công việc này. Ông thích phục vụ trẻ em như con lừa chở Chúa Giêsu vào Chúa nhật Lễ Lá. Ông nhận được rất nhiều sự chú ý và người ta cho ông rất nhiều đồ ăn. Không có căng thẳng, không có thời hạn, khiếu nại hay ca thán.
 
Một ngày nọ, ông cảm thấy rất phấn khởi. Vì vậy, ông bắt đầu đu trên dây, càng lúc càng cao hơn. Nhưng đột nhiên ông mất thăng bằng, lộn vài vòng và rơi xuống chiếc lồng sắt gần bên. Choáng váng và xây xẩm, ông nhìn lên và thấy một con sư tử hung dữ. Trong cơn hoảng loạn, ông ta quên mất rằng mình chỉ đóng vai một con khỉ đột và hét lên: “Cứu với! Giúp đỡ!”
 
Con sư tử hung dữ đó quay về phía ông ta và nói: “Ồ, im đi, anh bạn, tôi cũng là người đóng vai.”
 
* Không giống như những người đóng vai khỉ đột và sư tử này, tất cả chúng ta đều là người phục vụ Chúa. Chúng ta hãy cho Chúa Giêsu mượn con lừa của mình để Người cưỡi khi vào thành Giêrusalem.


LỄ LÁ năm B

Lời Chúa: 
TRUYỆN KỂ
1. A


LỄ LÁ năm C

Lời Chúa: 
TRUYỆN KỂ
1. A


THỨ HAI


Lời Chúa: Ga 12, 1-11
 
Sáu ngày trước Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu đến làng Bêtania, nơi Ladarô đã chết được Người cho sống lại. Tại đây người ta dọn bữa cho Người ăn. Martha hầu bàn. Còn Ladarô cũng là một trong những kẻ đồng bàn với Người. Bấy giờ Maria lấy một cân dầu thơm, dầu cam tùng hảo hạng, và xức chân Chúa Giêsu, rồi lấy tóc mình mà lau. Hương thơm toả đầy nhà.
 
Một môn đệ là Giuđa Iscariô, kẻ sẽ phản nộp Người, liền nói: "Sao không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng mà cho người nghèo khó?" Hắn nói thế không phải vì lo lắng cho người nghèo khó đâu, mà vì hắn là tên trộm cắp, lại được giữ túi tiền, nên bớt xén các khoản tiền người ta bỏ vào đó. Vậy Chúa Giêsu nói: "Hãy để mặc cô ấy làm công việc chỉ về ngày táng xác Ta. Vì các ngươi sẽ có người nghèo luôn bên cạnh các ngươi, còn Ta, các ngươi sẽ không gặp Ta mãi đâu."
 
Có đám đông người Do-thái biết Người đang ở đó, nên tuôn đến, không những vì Chúa Giêsu, mà còn để thấy Ladarô, kẻ đã chết được Người cho sống lại.
 
Thế là các Thượng tế quyết định giết luôn cả Ladarô, vì tại ông mà nhiều người Do-thái đã bỏ họ và tin theo Chúa Giêsu.
 

TRUYỆN KỂ - YÊU LÀ CHO ĐI
 
1. Âm thầm giúp đỡ.
 
Du khách viếng thăm hành lang nổi tiếng của nhà thờ chính tòa Phaolô ở Luân đôn có thể nghe tiếng của người hướng dẫn đang thuật lại lịch sử của nhà thờ  truyền đi khắp nơi chung quanh vòm mái tròn to lớn chính điện, nhờ các kiến trúc đặc biệt làm tiếng nói vang dội mang âm thanh đi rất xa.
 
Cũng vì thế, nên nếu áp tai vào  tường người ta có thể nghe được những gì một người nói từ phía bên kia của vòm mái tròn, mặc dầu đó chỉ là một giọng nói thì thầm tâm sự.
 
Tại ngôi Nhà thờ chính tòa này, một người hành nghề đóng giầy than vãn với người yêu là chàng chưa thể tiến hành lễ cưới ngay bây giờ được. Hiện tại chàng không có cả tiền để mua da và các vật liệu cần thiết để có thể tiếp tục hành nghề, vì thế chàng đang phải thất nghiệp dài dài, đào đâu ra tiền để làm đám cưới. Nghe tin bất lành, ý trung nhân của anh chỉ biết sụt sùi khóc.
 
Đang lúc ấy, một người tình cờ đi qua hành lang phía bên kia nghe được câu chuyện thương tâm và những lời cầu nguyện của anh thợ đóng giầy. Ông ta quyết định làm một cái gì để giúp đôi trai gái trở thành gia thất. Vì thế, khi chàng trai từ giã người bạn gái thất thểu ra về, ông ta cũng tiến bước theo sau để biết chỗ ở của anh ta và lập tức cho người mang đến tặng cho anh một số da. Chàng đóng giầy phấn khởi bắt tay vào việc và không bao lâu công việc làm ăn phát đạt tạo đủ điều kiện để anh có thể tiến hành hôn lễ với người yêu.
 
Mãi đến mấy năm sau, hai vợ chồng mới biết vị ân nhân của mình là ông William Gladston, vị thủ tướng Anh quốc thời ấy.
 
2. Tiền không mua được
 
George Horace Lorimer, chủ bút tờ Saturday Evening Post trong nhiều năm, có lần viết: “Có tiền và có những cái mua bằng tiền là tốt. Nhưng biết dùng tiền và đừng để mất những thứ tiền không mua được thì còn tốt hơn."
 
Có thể kể những thứ sau đây tiền không mua được:
 
Tiền không mua được tình bạn chân thực.
 
Tiền không mua được lương tâm trong sạch.
 
Tiền không mua được niềm vui mạnh khỏe.
 
3. Cho đi mới nhận lại
 
Cụ gìa kia mỗi khi đến bữa cơm, thường làm cho người con trai bực mình vì tuổi già sức yếu. Có lần, bàn ăn vừa mới dọn ra, cụ nhìn thấy tô canh ngon, liền bưng lên húp một hơi, con trai cụ nhìn thấy quát:
 
- Ông ăn uống thế, ai còn muốn ăn tô canh đó nữa!
 
Rồi anh cầm lấy tô canh hất ra ngoài vườn, và mỗi lần ông cụ cầm chén cơm, vì tay chân run rẩy, nên cụ thường làm vỡ chén, anh thấy thế gắt gỏng quát bố:
 
- Nhà có mấy cái chén đập hết rồi, từ nay ăn cơm lấy tay mà bốc!
 
Thế là anh có sáng kiến: làm một cái máng nhỏ bằng gỗ, giống như máng heo, để cho bố dùng thay chén, nếu có rớt xuống thì cũng không sao!
 
Khi cụ già qua đời, anh tỏ ra hiếu thảo với bố, nên mướn kèn trống thổi inh ỏi suốt cả ngày đêm!! Khi đã an táng bố xong, về nhà anh lấy “chén” gỗ ném ra vườn sau nhà. Con anh thấy vậy vội chạy ra nhặt vào. Anh quát bảo nó:
 
- Ông nội mày đã chết, tao vất chén đó đi, mày còn lấy vào làm gì!?
 
- Dạ, thưa ba, con nhặt về để khi ba già như ông nội, con sẽ đưa cho ba dùng, con khỏi phải đóng cái khác.
 
Hãy nhớ lời Chúa Giêsu dạy: “Anh em đong bằng đấu nào, thì sẽ được Thiên Chúa đong trả lại bằng đấu ấy!” (Mt 7,2).
 
4. Tình yêu là cho đi
 
O. Henry, một bậc thầy về chuyện ngắn, đã viết một câu chuyện rất cảm động với tựa đề là “Món Quà Giáng Sinh."
 
Một cặp vợ chồng nọ tên là Della và Jim. Họ rất nghèo nhưng hết sức yêu nhau. Mỗi người chỉ có một tài sản duy nhất. Đối với Della thì mái tóc là vinh quang của nàng. Còn Jim hãnh diện với chiếc đồng hồ vàng nhưng lại không có dây đeo do cha chàng để lại.
 
Một ngày trước lễ Giáng sinh, Della muốn mua một món quà để tặng cho Jim nhưng nàng chỉ còn đúng một Mỹ kim tám mươi bảy xu. Della đã nghĩ ra cách để có thêm tiền. Cô đã bán mái tóc của mình với giá hai mươi Mỹ kim. Sau đó cô mua một chiếc dây bằng bạch kim để tặng Jim với ý muốn chiếc đồng hồ quí báu của chàng sẽ có dây đeo.
 
Tối ấy, Jim về đến nhà, nhìn mái tóc bị cắt ngắn của Della, chàng đứng sững sờ. Không phải vì chàng không thích, hay không còn yêu nàng nữa, nàng vẫn đáng yêu hơn bao giờ hết. Dù sao thì đây cũng là dịp để nói lên tình yêu đối với nàng. Chậm rãi, chàng mở món quà ra và trao cho nàng.
 
Đó là một chiếc trâm kẹp tóc bằng đồi mồi có viền những viên ngọc nhỏ lóng lánh được mua bằng tiền chàng đã bán chiếc đồng hồ đi. Còn nàng thì trao cho chàng chiếc dây đồng hồ nàng mua được bằng tiền bán đi mái tóc đẹp của mình.
 
Người nọ đã tặng cho người kia tất cả những gì mình có.
 
Tình yêu chân thật không thể nghĩ ra cách nào khác hơn để hiến dâng cho nhau.
 
5. Cơ hội tuyệt vời
 
Người ta kể, ngày xưa có một lần nữ hoàng Mary của Anh Quốc đi sang thăm Scotland, một nước rất quí mến nữ hoàng. Để đáp lại tấm thịnh tình của dân Scotland, nhiều lần Nữ Hoàng đến với họ mà không cho những người hộ tống đi theo để dễ gần gũi với dân chúng.
 
Lần kia, nữ hoàng đi về vùng quê chơi. Hôm ấy bỗng trời đổ mưa. Nữ hoàng ghé vào nhà của một người ở trong vùng để mượn một cây dù. Nữ hoàng nói với chủ nhà:
 
- Chị làm ơn cho tôi mượn cây dù, ngày mai tôi sẽ trả lại chị.
 
Vì không biết người đến mượn dù là ai, nên lúc đầu chị chủ nhà tỏ vẻ ái ngại không muốn cho mượn. Nhưng sau một hồi suy nghĩ, chị chủ nhà đã trở vào trong, lấy ra một chiếc dù cũ kỹ, đưa ra cho người lạ mặt mượn.
 
Ngày hôm sau, khi nghe tiếng gõ cửa, chị chạy ra mở cửa, thì thấy một người lính đứng ở trước cửa nhà, tay cầm chiếc dù cũ của chị. Người lính nói với chị:
 
- Thưa chị, nữ hoàng sai tôi đem cây dù này gởi trả lại chị. Nữ hoàng cũng gởi lời cám ơn chị rất nhiều.
 
Chị chủ nhà nghe vậy đứng lặng người một lát rồi òa lên khóc và nói:
 
- Thế là tôi đã đánh mất đi một cơ hội không bao giờ trở lại với tôi lần thứ hai nữa.
 
Có những cơ hội chỉ đến có một lần. Khi nó qua đi thì nó chẳng bao giờ trở lại. Maria đã biết rõ điều đó cho nên chị chụp ngay lấy cơ hội. Chị đem dầu thơm hảo hạng nhất xức cho Chúa.

 
6. Thiên Chúa hay Tiền Của?
 
Một người lượm được một viên ngọc thời nhà Tống. Người đó không dám giữ nên biếu cho một ông quan. Ông quan nhất định không nhận, người đó mới nói: “Ngọc này tôi đã cho thử, những người thợ cao tay nói rằng: Đây là ngọc quý, ngọc thật. Xin quan nhận cho."
 
Viên quan mới nói: “Đối với anh, viên ngọc thì quý, nhưng đối với tôi, lòng không tham mới quý. Bây giờ tôi nhận của anh, anh mất viên ngọc quý, còn tôi mất tấm lòng quý. Chi bằng anh giữ viên ngọc đi. Anh vẫn còn cái quý của anh, tôi còn báu vật của tôi." Người đó trả lời: “Xin quan nhận cho, tôi giữ viên ngọc thì lo lắng, không biết mình có giữ an toàn cho mạng sống của tôi hay không."
 
Lúc đó quan mới cho người thợ đến mài giũa viên ngọc, bán lấy tiền đưa cho anh và cho cả lính đưa anh ta về nhà.
 
Ngược với viên quan thanh liêm đó là một môn đệ thân tín của Chúa Giêsu là Giuđa Iscariô, kẻ sẽ phản nộp Người, đã nói khi thấy Maria xức dầu cam tùng hảo hạng mà xức chân Chúa: "Sao không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng mà cho người nghèo khó?"
 
Hắn nói thế không phải vì lo lắng cho người nghèo khó đâu, mà vì hắn là tên trộm cắp, lại được giữ túi tiền, nên bớt xén các khoản tiền người ta bỏ vào đó.
 
Bước vào tuần thánh, Lời Chúa mời gọi mọi người nhớ đến mối phúc đầu tiên trong bài giảng đầu tiên Chúa dạy: mối phúc dành cho những ai có tinh thần nghèo khó. Sống tinh thần nghèo khó là đặt trọn niềm tin vào Chúa.
 
Thế nên cám dỗ đầu tiên phải biết đến mà phòng chừng là cám dỗ sống theo lòng tham, là cám dỗ thờ tiền bạc... đi ngược lại với mối phúc đầu tiên. Thờ tiền bạc không phải đặt tiền bàn thờ lên mà cúi lạy nó, nhưng làm mọi sự để có tiền, và để cho đồng tiền điều khiển cuộc sống của mình.
 
Chọn lựa đầu tiên của người môn đệ Chúa cũng từ đó: "Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được." (Mt 6,24)
 
Tôi đang để Thiên Chúa hay tiền của điều khiển cuộc sống tôi, tôi sợ mất Chúa hay mất tiền?



THỨ BA


Lời Chúa: Ga 13, 21-33. 36-38
 
Khi ấy, (Chúa Giêsu đang ngồi ăn với các môn đệ), tâm hồn Người bị xao xuyến, nên Người tuyên bố: "Thật, Thầy nói thật cho các con biết, một người trong các con sẽ nộp Thầy."
 
Các môn đệ nhìn nhau phân vân không biết Người nói về ai. Có một môn đệ được Chúa Giêsu yêu quý, đang ở bàn ăn gần lòng Chúa Giêsu. Vậy Phêrô làm hiệu cho môn đệ ấy và nói: "Hỏi xem Thầy nói về ai đó." Môn đệ ấy nghiêng mình sát ngực Chúa Giêsu và hỏi Người: "Thưa Thầy, ai vậy?"
 
Chúa Giêsu trả lời: "Thầy chấm miếng bánh trao cho ai là người đó." Và Người chấm một miếng bánh trao cho Giuđa, con Simon Iscariô. Ăn miếng bánh rồi, Satan nhập vào hắn. Chúa Giêsu nói với hắn: "Con tính làm gì thì làm mau đi." Nhưng những người đang ngồi ăn không một ai hiểu được vì sao Người lại nói với hắn như vậy. Có nhiều người tưởng tại Giuđa giữ túi tiền, nên Chúa Giêsu bảo hắn: Hãy mua những gì chúng ta cần dùng trong dịp lễ, hoặc Người bảo hắn bố thí cho người nghèo. Vậy sau khi nhận miếng bánh đó, Giuđa liền đi ra. Bấy giờ là đêm tối.
 
Khi Giuđa đi rồi, Chúa Giêsu phán: "Bây giờ Con Người được vinh hiển, và Thiên Chúa đã được vinh hiển nơi Người. Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính Mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển! Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa. Các con sẽ tìm Thầy, và như Thầy đã nói với người Do-thái: "Nơi Ta đi, các ngươi không thể đến được", nay Thầy cũng nói với các con như vậy."
 
Simon Phêrô hỏi Người: "Thưa Thầy, Thầy đi đâu?" Chúa Giêsu trả lời: "Nơi Thầy đi, nay con chưa thể theo tới đó được, nhưng sau này con sẽ theo Thầy."
 
Phêrô thưa lại: "Tại sao con lại không theo Thầy ngay bây giờ được! Con sẽ liều mạng sống con vì Thầy." Chúa Giêsu nói: "Con liều mạng sống vì Thầy ư? Thật, Thầy nói thật cho con biết: trước khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần."
 

TRUYỆN KỂ - BÓNG ĐÊM TỘI LỖI
 
1. Trời đã tối
 
Người đời thường nói: “Hoàng kim hắc thế tâm nhân” có nghĩa là đồng tiền làm đen tối lòng người. Mắt đã bị đồng tiền che mờ đi rồi thì không con nhìn ra công lý, không còn nhìn ra công tình thương. Nói rõ ra, Giuđa đã đánh mất lương tâm.
 
Người da đỏ giải thích lương tâm như sau: Đó là một khối ba góc ở trong tim ta. Khi ta làm gì tốt thì nó nằm yên. Khi ta làm gì xấu, nó quay và đâm các góc nhọn vào ta. Nếu ta cứ làm điều xấu, các góc nhọn của nó mòn dần và không làm ta cảm thấy gì nữa cả.
 
 “Giuđa liền ra đi, lúc đó trời đã tối”: Trời đã tối, ở đây tượng trưng cho giờ của mãnh lực bóng tối hoành hành. Một hành vi xấu xa tội lỗi có thể làm u ám, hoen ố môi trường xã hội. Đó là những gương xấu, làm ảnh hưởng đến tha nhân và cộng đoàn.
 
2. Tội vô ơn của một đứa con.
 
Người con trai của một nhà truyền giáo bị bắt giữ, và bị qui cho tội phản động. Anh ta bị xét xử, kết án và cầm tù. Người cha già nua của anh, vốn nổi tiếng là người có học thức và là một Kitô hữu tốt lành, đã chạy đi khắp nơi tập hợp được hàng trăm chữ ký ký vào tờ đơn xin ân xá cho anh. Ông tìm đến tận Washington gặp Tổng thống Grant trình bầy tờ đơn đó và van xin tha thứ cho con trai ông, nhờ vào những công lao đóng góp của cha mẹ anh ta.
 
Được sự phê chuẩn của Tổng thống, người cha già nua đó vội vã đón xe lửa đến nhà tù gặp con trai. Cầm trên tay tờ giấy được ân xá, ông nói với con trai:
 
- John ạ, cha có một tin vui mang đến cho con đây. Tổng thống Grant đã chấp thuận ơn xin ân xá của cha. Con có thể trở về nhà với cha ngay bây giờ, và kịp gặp được mẹ con trước khi mẹ con qua đời!
 
Nhưng con trai ông không đáp lại một lời. Người cha nói tiếp:
 
- Con có hiểu cha nói gì không, John? Đây là tờ giấy chứng nhận con đã được ân xá.
 
Anh con trai vô ơn đó trả lời:
 
- Thưa cha, con rất tiếc đã làm buồn lòng cha, nhưng con đã quyết định không đi theo hệ thống chính trị này, và con sẽ sống theo chọn lựa của con.
 
Trái tim của người cha già hầu như tan nát. Ông ngã nhoài xuống hàng lưới sắt, và được một người gác ngục dìu đi.
 
3. Tương lai cho tội nhân
 
Một giáo sĩ trẻ được phân công giảng giải trong tù. Ngài cố gắng tìm những lời lẽ hoặc biện pháp mong hoán cải những kẻ cứng đầu.
 
Bước vào phòng, ngài rùng mình nhìn thấy những bộ mặt bướng bỉnh. Ngài cầu xin sự sáng suốt như khi ngài bước lên bục giảng. Ngài vấp chân và té nhào xuống khiến mọi người phải bật cười.
 
Linh mục cảm thấy đau và xấu hổ. Ngài nảy ra một ý nghĩ rồi nhảy mạnh liền hai bậc, cười với mọi người và nói: “Này các bạn, đó cũng là lý do tại sao hôm nay tôi đến đây: Tôi muốn cho các bạn thấy rằng một người có thể vươn lên sau những thất bại đáng xấu hổ."
 
4. Như Lòng Chúa khoan dung
 
Có một cặp vợ chồng cưới nhau đã lâu, sống đạo rất tử tế nhưng mong mãi vẫn chưa có được mụn con. Thế rồi cuối cùng người vợ cũng mang thai, họ vui mừng xác tín đây là một ân huệ Chúa ban.
 
Nhưng đến ngày sinh, mọi người đều bàng hoàng nhận ra đứa bé có dị tật, bàn tay phải của nó bị teo nhỏ không như bàn tay trái. Người cha đã ôm lấy đứa con trai sơ sinh mà khóc nức nở. Sau đó, bạn bè đến thăm gia đình, ai cũng tỏ ra lúng túng, không biết sẽ phải chúc mừng hay chia buồn ? Nhưng họ không ngờ, chính người mẹ của em bé lại khiến cho họ bỡ ngỡ thán phục khi bà tươi cười bảo họ:
 
“Suốt tuần qua, vợ chồng chúng tôi đã xóa khỏi đầu óc cái lý tưởng hoàn hảo mà chúng tôi vẫn từng ấp ủ. Dù gì đi nữa, đã gọi là lý tưởng thì sẽ không bao giờ có. Trong hiện tại, chúng tôi đang có trong tay một đứa con, công việc của chúng tôi bây giờ không phải là sống với lý tưởng của mình, nhưng là đón nhận Ý Chúa khi yêu thương và đùm bọc cháu bé như đó là một quà tặng vô giá của Người..."
 
Nếu ta chưa thấy việc làm theo ý Chúa và chịu khổ vì Chúa là một vinh dự, thì đó là dấu ta chưa yêu Chúa. Yêu mến Chúa thì phải sẵn sàng vui mừng vâng theo thánh ý của Người.
 
5. Xin vâng
 
Johannes Sebastian Bach là một nhạc sĩ Công giáo lừng danh người Đức, khi về già, ông lâm phải căn bệnh trầm trọng có thể gây ra chứng mù lòa.
 
Một hôm, có người bạn đến báo tin có một bác sĩ giỏi về nhãn khoa mới tới thành phố, và ông ta sẵn sàng chữa đôi mắt cho nhạc sĩ bằng một cuộc giải phẫu. Nhạc sĩ thành tâm trả lời người bạn quý: “Xin vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa, tôi nhận lời."
 
Công việc chữa trị được tiến hành, nhưng 4 ngày sau đó, khi mở băng gạc ra, trước sự hồi hộp đợi chờ của thân nhân chung quanh giường bệnh, nhạc sĩ đã bình thản trả lời: “Xin vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa, tôi vẫn chẳng trông thấy gì cả!” Mọi người nghe vậy thì bật khóc vì thương cảm. Bản thân ông cũng không tránh khỏi xúc động. Bầu khí như chùng xuống trong sự buồn đau của mọi người.
 
Thế nhưng, thật bất ngờ, nhạc sĩ đã cố trấn tĩnh lại, cất tiếng cười vang tràn đầy lạc quan: “Ơ hay, tôi đã bảo là xin vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa cơ mà. Nào, xin mọi người hãy hát lên cho tôi bản nhạc mà tôi thích nhất, đó là bài “Những Điều Chúa Làm, Ngài Đều Biết Rõ!"
 
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết vâng theo những soi sáng của Chúa qua từng phút giây của cuộc sống.
 
6. Bóng đêm
 
Khi mặt trời lặn, bóng đêm bao phủ không gian, thì cũng là dịp thuận tiện để cái ác lộ hiện hay những hành vi tội lỗi như trộm cướp, ăn chơi xuất hiện... Bóng đêm là “biểu tượng” của những âm mưu xấu xa. Bóng đêm còn “ám chỉ sự dữ”, bởi bóng đêm quay lưng lại với “ánh sáng” và bóng đêm “bóp chết tình yêu."
 
Cuối Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan có nhắc đến thời điểm đêm tối và kẻ bán Thầy bắt đầu ra đi. Hành vi Giuđa rời bàn ăn, tiến vào đêm tối gợi cho chúng ta cảm tưởng tội lỗi đã đối đầu với Ánh Sáng và tràn ngập nhân gian.
 
Bóng đêm chia cắt tình Thầy – trò; bóng đêm cũng làm cho tình huynh đệ bị rạn nứt; bóng đêm còn làm cho cái ác ngự trị thay cho tình yêu. Sự ra đi của Giuđa vào lúc trời tối cho thấy rõ bản chất của sự việc.
 
Thứ ba Tuần Thánh, Giáo Hội cho đọc lại Bài Tin Mừng hôm nay nói về âm mưu phản bội của Giuđa khi trời đã tối, Giáo Hội nhắc cho chúng ta rằng:
 
Chúng ta thuộc về “Ánh Sáng” chứ không thuộc về “đêm”, vì thế, mỗi người hãy tránh xa “đêm tối”, vì đêm tối dẫn đến diệt vong.
 
7. Chuyện cái lưỡi
 
Ngôn sứ Isaia nói: “Chúa đã cho miệng lưỡi tôi nên như gươm sắc bén, dưới bóng tay Người, Người cho tôi ẩn núp, Người làm cho tôi thành mũi tên nhọn và dấu tôi trong bao tên của Người” (Is 49, 2: Bài đọc).
 
* Cái lưỡi sinh sự sống.
 
Lần kia, một phụ huynh biết con mình học kém, điểm môn nào cũng dưới trung bình, nên dẫn con đến cô chủ nhiệm và nói: “Cháu có trí khôn kém quá học không được, xin phép cô cho cháu nghỉ học để về chăn bò”, nhưng cô giáo trả lời: “Em này tôi biết học kém nhất lớp, nhưng em lại có một nụ cười duyên dáng, khó ai bắt chước, mỗi lần em đến lớp là làm cho các bạn trong lớp rộ lên niềm vui. Nếu gia đình cho cháu nghỉ, tôi và các em trong lớp thật tiếc.”
 
Cậu bé nghe thế, lòng thầm vui, nên thưa với má: “Xin cho con tiếp tục học, con sẽ cố gắng.” Lạ thay, từ bấy giờ việc học của em tiến bộ, làm mọi người ngạc nhiên.
 
* Cái lưỡi sinh sự chết.
 
Buổi chiều nọ, một thiếu nữ đang đứng trước cửa nhà đợi chồng đi làm về, thình lình có một người bạn đi ngang qua muốn chọc ghẹo cô, đã dựng chuyện nói đùa: “Chị ơi, vào nhà ăn cơm đi, đừng đứng đợi anh nữa, tôi thấy anh ấy chở một cô nào đẹp lắm, ngồi sau xe ôm eo, trông hai người có vẻ thân mật lắm!”
 
Cô vợ sụ nét mặt đi vào nhà. Không may hôm đó anh chồng đi làm về trễ, vì hỏng xe giữa đường! Khi vào tới nhà hớn hở gọi vợ: “Em đâu, hôm nay xui anh quá, anh bị hư xe, nên về trễ.” Nhưng vợ không tin, cho rằng anh nói dối! Thế là cô vợ nổi sùng quát: “Ông đừng lấy vải thưa mà che mắt thánh. Chúa bảo mọi bí ẩn sẽ lộ ra ánh sáng. Ông đi với con nào?”
 
Chồng giải thích thế nào vợ cũng không chịu! Một cuộc khẩu chiến đôi bên như hai con gà đá nhau, lối xóm đến can không được. Hậu quả đưa nhau ra tòa ly dị!
 
8. Sức mạnh của tình yêu
 
Có một tên cướp đi vào ngôi làng nọ. Anh ta lẻn vào nhà vị bác sĩ duy nhất trong làng vì nghĩ rằng ông bác sĩ này hẳn là rất giàu có. Anh ta dự định sẽ khống chế vị bác sĩ, bắt ông ấy nói ra chỗ cất của cải, rồi sẽ giết ông để giữ bí mật.
 
Khi tên cướp định ra tay thì đột nhiên điện thoại trong nhà vị bác sĩ reo lên. Đó là cuộc gọi từ người thân của một đứa trẻ đang bệnh rất nặng từ ngôi làng bên cạnh, cầu xin bác sĩ hãy đến cứu đứa bé. Lúc ấy là vào mùa đông, tuyết rất lớn, và ngoài trời đang mưa gió bão bùng. Ngôi làng có đứa trẻ bị bệnh lại cách xa nơi này tận một quả núi.
 
Trời đã quá khuya và đường đi đến đó rất nguy hiểm. Từ chỗ ẩn nấp, tên cướp nhìn thấy vẻ mệt mỏi trên gương mặt của vị bác sĩ sau một ngày dài làm việc. Thế nhưng, sau khi gác điện thoại, hắn nghe thấy vị bác sĩ lẩm bẩm, "Mình không đi mà bệnh nó trở nặng thì sao, ai giúp được cho nó đây?" rồi ông vội mặc thêm áo, cầm theo cây đèn bão và mở cửa ra đi. Dáng ông liêu xiêu trong gió tuyết.
 
Sáng hôm sau khi vị bác sĩ về đến trước nhà, tên cướp đón ông và nói: "Ông có biết tôi đã chờ ông suốt từ đêm qua tới giờ không?"
 
Vị bác sĩ vội đáp: "Ồ, xin lỗi ông, tôi đã đi ngay trong đêm để kịp cứu sống một đứa bé. Bây giờ xin mời ông vào nhà để tôi khám bệnh cho ông."
 
Tên cướp quỳ sụp xuống đáp lại trong ràn rụa nước mắt: "Tôi là một tên cướp. Đêm qua tôi đã ẩn nấp trong nhà ông. Tôi muốn bắt ông khai ra chỗ giấu của cải và sẽ giết ông. Nhưng chứng kiến cảnh ông bất chấp nguy hiểm và ra đi giữa trời đêm gió tuyết để chữa bệnh cho một đứa trẻ, tôi đã rất xấu hổ vì định làm hại một người tốt như ông. Lòng tốt của ông đã cứu đứa trẻ làng bên, cứu mạng cho ông và còn cứu cả cho tâm hồn tôi nữa. Cám ơn ông thật nhiều."
 
Tiên tri Isaia đã nói với mọi người về tình yêu Chúa: "Chúa đã kêu gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, đã nhớ đến tên tôi khi tôi còn ở trong bụng mẹ."
 
Lời Chúa trong Tuần Thánh nói thật rõ cho tôi biết về tình yêu Chúa, một tình yêu đích thực, một tình yêu chỉ mong điều tốt cho người khác, bất kể mình được đáp trả như thế nào. Qua một lời chung chung, Chúa đã nhắc nhở Giuđa: "Thầy nói thật cho các con biết, một người trong các con sẽ nộp Thầy.” và với Phêrô: "Thầy nói thật cho con biết: trước khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần.”
 
Tin vào Chúa là tin vào sức mạnh của tình yêu, cứ yêu đi bất kể chọn lựa của người mình yêu. Chúa đã bị bán, đã bị phản bội bởi hai người thân tín của mình, nhưng thánh giá Chúa ngày nay được dựng lên trên toàn thế giới.
 
Lời Chúa dạy và tấm gương Chúa để lại mời gọi tôi vững tin vào sức mạnh của tình yêu, như thánh Augustinô đã nói: "Cứ yêu đi rồi làm gì cũng được."
 
Điều quan trọng là tôi có dám để cho tình yêu đích thực điều khiển cuộc sống mình hay không?


THỨ TƯ


Lời Chúa: Mt 26, 14-25
 
Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và thưa với họ: "Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?" Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người.
 
Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn Bánh không men, các môn đệ đến thưa Chúa Giêsu rằng: "Thầy muốn chúng con sửa soạn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua ở đâu?" Chúa Giêsu đáp: "Các con hãy vào thành đến với một người kia, và nói rằng: Thầy bảo, giờ Ta đã gần, Ta sẽ mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ tại nhà ông." Các môn đệ làm như Chúa Giêsu đã truyền và sửa soạn Lễ Vượt Qua.
 
Chiều đến, Người ngồi bàn ăn với mười hai môn đệ. Và khi các ông đang ăn, Người nói: "Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy." Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người: "Thưa Thầy, có phải con không?" Người trả lời: "Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ sẽ nộp Thầy. Thật ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người, thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!"
 
Giuđa kẻ phản bội cũng thưa Người rằng: "Thưa Thầy, có phải con chăng?" Chúa đáp: "Ðúng như con nói."
 

TRUYỆN KỂ - Dung mạo kẻ phản bội.
 

1. Tội đi từ nhẹ đến nặng.
 
Có một câu truyện ngụ ngôn kể rằng: Lúc ông Noe trồng nho, Satan tò mò để ý và mon men đến gạ chuyện.
 
- Ông trồng gì đấy?
 
- Cây nho.
 
- Thế, trồng nho thì được cái gì?
 
- Trái nho trông rất đẹp mắt, ăn vào ngon tuyệt, còn nước ép lên men sẽ làm ngây ngất tâm hồn.
 
- Vậy thì tôi sẽ giúp ông.
 
Satan đi bắt một con chiên, giết đi và đổ máu nó vào gốc cây nho. Hắn cũng giết một con sư tử, một con khỉ và một con heo, rồi cũng đổ hết máu những con vật ấy vào gốc cây nho. Cây nho hút hết những thứ ấy mà lớn lên.
 
Từ khi đó, mỗi lần người ta uống một chút rượu, họ trở nên hiền lành và duyên dáng như con chiên. Nếu hăng “đô” lên, họ sẽ mạnh mẽ và thô kệch như sư tử. Nếu cứ thế tiếp tục, họ sẽ trở nên ngổ ngáo như con khỉ. Và nếu, chẳng may, không chịu dừng ở đó, kết cuộc họ sẽ không khác gì như con heo (French Legend).
 
2. Cái đồng hồ vô ích
 
Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức giậy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm ở một chỗ xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức.
 
Ngày đầu tiên, anh quên vặn chiếc đồng hồ trước khi đi ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm hki nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc.
 
Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp: Chiếc đồng hồ đó hoàn toàn vô dụng đối với con. Nó vô dụng là tại vì con không chịu dùng nó. Mẹ anh đáp. Bao nhiêu ơn Chúa ban cho ta cũng đều vô dụng nếu ta không sử dụng đến.
 
3. Đũa ngà voi
 
Thương Trụ dùng ngà voi làm đũa. Cơ Tử thấy vậy, sinh lòng lo lắng, sợ hãi.

Bởi vì, khi dùng đũa bằng ngà voi thì tự nhiên sẽ không dùng chén bát bằng sành sứ nữa, nhưng đương nhiên sẽ dùng bằng ngọc quí cho tương xứng. Một khi đã dùng chén ngọc, đũa ngà, thì tự nhiên sẽ không dùng món ăn thanh đạm, trái lại dùng đuôi voi, thịt báo cho tương xứng. Khi lương thực toàn là cao lương mỹ vị, quần áo và nơi ở tất phải thay đổi, không còn là vải thô, nhà tranh vách đất, nhưng phải áo lụa là, nhà cao cửa rộng.

Cứ suy cho đến cùng, thì thiên hạ phải cùng khổ. (Trích Hàn Phi Tử thuyết lâm, quyển thượng)
 
Và lịch sử đã chứng minh Thương Trụ đã sa đọa và thiên hạ đã phải cùng khổ vì con người ấy như thế nào.
 
Đã có lần tôi nói: từ một điếu thuốc đến tật nghiện ngập, con đường tưởng xa nhưng lại rất gần. Từ một ngụm rượu uống cho vui cho đến tật say sưa, con đường tưởng là xa nhưng lại rất gần.
 
4. Từ Dung mạo Chúa Giêsu đến Giuđa
 
Leonardo da Vinci vẽ bức tranh “Bữa tiệc ly” mất bảy năm liền. Đó là bức tranh vẽ Chúa Giêsu và 12 vị tông đồ trong bữa tiệc cuối cùng, trước khi Ngài bị Giuđa phản bội.
 
Leonardo phải mất rất nhiều thời gian và công sức trong việc tìm những người mẫu. Ông đã phải tìm trong số cả hàng ngàn thanh niên, mới chọn ra được một chàng trai với gương mặt thánh thiện, và với một phẩm cách thanh khiết tuyệt đối để làm mẫu vẽ Chúa Giêsu. Leonardo da Vinci đã làm việc không biết mệt mỏi suốt sáu tháng liền trước chàng trai, và hình ảnh Chúa Giêsu đã dần dần hiện lộ ra trên bức tranh.
 
Sáu năm tiếp theo, ông lần lượt vẽ xong 11 vị tông đồ, chỉ còn có Giuđa, tông đồ đã phản bội Chúa vì 30 đồng bạc. Họa sĩ muốn tìm một người đàn ông tương xứng. Hắn phải có một khuôn mặt để lộ ra sự hám lợi, lừa lọc, và cực kỳ tàn ác. Khuôn mặt đó phải toát lên tính cách của kẻ sẵn sàng bán đi người bạn thân nhất, người thầy kính yêu nhất của chính mình…
 
Cuộc tìm kiếm dường như vô vọng. Bao nhiêu gương mặt xấu xa nhất, độc ác nhất đã đi qua trước mắt nhưng ông vẫn chưa thấy đủ những biểu hiện cho một Giuđa độc ác. Thế rồi một hôm, Leonardo da Vinci được thông báo là có một kẻ mà ngoại hình có thể đáp ứng yêu cầu của ông. Hắn đang ở trong một hầm ngục ở Rôma. Hắn bị kết án tử hình vì giết người và nhiều tội ác tày trời khác…
 
 Leonardo da Vinci lập tức lên đường đến Rôma. Trước mặt ông là một gã đàn ông với nước da đen sạm, mái tóc dài bẩn thỉu xõa xuống gương mặt. Khuôn mặt hắn thật xấu xa, hiểm ác, hiển hiện rõ tính cách của một kẻ hoàn toàn bị tha hóa. Đúng, đây là Giuđa!
 
 Với phép đặc biệt của đức vua, người tù được đưa tới Milan nơi bức tranh “Bữa tiệc Ly” đang được vẽ dở dang. Mỗi ngày tên tù ngồi trước mắt Leonardo Da Vinci, và người họa sĩ thiên tài cần mẫn với công việc chuyển tải vào bức tranh diện mạo của kẻ phản phúc.
 
 Khi nét vẽ cuối cùng đã hoàn thành, kiệt sức vì phải đối mặt với cái ác một thời gian dài, Leonardo Da Vinci quay sang bảo lính gác:
 
- Các ngươi đem hắn đi đi …!
 
Lính canh túm lấy y, nhưng hắn đột nhiên vung ra và lao đến quỳ xuống bên chân Da Vinci, khóc nấc lên:
 
- Ôi, ngài da Vinci! Hãy nhìn con! Ngài không nhận ra con ư ?
 
Leonardo da Vinci quan sát kẻ mà sáu tháng qua ông liên tục nhìn mặt. Cuối cùng, ông đáp:
 
 - Không, ta chưa từng nhìn thấy ngươi cho đến khi ngươi được đưa đến từ hầm ngục Rôma…
 
Tên tử tù kêu lên:
 
- Ngài Vinci … Hãy nhìn kỹ con! Con chính là người mà bảy năm trước ngài đã chọn làm mẫu vẽ Chúa Giêsu.
 
5. Mỗi người đều có Giuđa trong tâm hồn
 
Sáng thứ Tư 08/04, tại Nhà nguyện Thánh Marta, Đức Thánh Cha dâng Thánh lễ cầu nguyện cho những người lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của đại dịch để trục lợi cho lợi ích cá nhân. (Ngọc Yến – Vatican)
 
“Hôm nay chúng ta cầu nguyện cho những người lợi dụng đại dịch để buôn bán với người túng thiếu, nhằm mục đích chiếm đoạt của cải người khác. Chúng ta xin Chúa chạm đến con tim họ để họ biết quay trở về."
 
Đưa cha mẹ vào viện dưỡng lão mà không thăm viếng là bán cha mẹ
 
Bài giảng của Đức Thánh Cha tập trung vào ông Giuđa, người đã bán Chúa. Mở đầu bài giảng Đức Thánh Cha nhắc lại tên gọi của ngày thứ Tư, ngày cuối cùng của Mùa Chay: “Thứ Tư Thánh này cũng được gọi là thứ Tư phản bội. Ngày mà sự phản bội của Giuđa được nhấn mạnh trong Giáo hội. Khi chúng ta nghĩ đến hoạt động buôn người, ngay lập tức chúng ta nghĩ đến hoạt động buôn người từ châu Phi đến châu Mỹ, ngày nay điều này vẫn còn tiếp tục. Có những Giuđa bán anh chị em mình, khai thác anh chị em trong công việc, không trả lương xứng đáng. Thậm chí, có những người còn bán người thân của mình, tôi nghĩ đến trường hợp những người con, để tiện cho công việc mình đã đưa cha mẹ vào viện dưỡng lão và không tới thăm viếng cha mẹ, điều này có thể được xem là họ đã bán cha mẹ."
 
Khuôn mặt của Giuđa ngày nay
 
Đức Thánh Cha tiếp tục giải thích khuôn mặt của Giuđa: “Hôm nay, việc buôn người cũng giống trước kia. Chúa Giêsu nói người ta không thể phục vụ Thiên Chúa và tiền của. Mỗi người chúng ta phải chọn lựa, phục vụ Thiên Chúa hoặc phục vụ tiền của. Có nhiều người vừa phục vụ Thiên Chúa vừa phục vụ tiền bạc, điều này không thể thực hiện được. Đó là những người khai thác giấu mặt, họ hoàn hảo về mặt xã hội, nhưng thực ra họ đang thực hiện việc buôn bán này."
 
Giuđa nhỏ ở trong tôi, ngươi đâu rồi?
 
Đức Thánh Cha kết luận: “Giuđa bị dằn vặt trong tâm hồn và đi gặp các thượng tế để trả lại số tiền đã nhận do bán Chúa, nhưng họ không quan tâm đến Giuđa. Đây là thái độ của ma quỷ, nó làm cho chúng ta thất vọng. Chúng ta hãy nghĩ đến trong thế giới ngày nay có nhiều Giuđa khai thác bóc lột dân chúng và một Giuđa nhỏ nào đó trong mỗi người chúng ta. Mỗi chúng ta đều có thể phản bội vì những lợi ích cho riêng mình. Giuđa nhỏ ở trong tôi, ngươi đâu rồi? Đây là câu tôi muốn hỏi mỗi người trong chúng ta."
 
6. Trả giá cho tình yêu
 
“Quý vị muốn cho tôi bao nhiêu? Tôi đây sẽ nộp ông ấy cho quý vị.” (Mt 26,15)
 
Đức Giê-su đã phải trả giá cho Tình Yêu dành cho con người bằng chính mạng sống của mình
 
Vào tháng 3/2011, một thảm họa kép động đất và sóng thần đã tàn phá một vùng rộng lớn tại vùng đông bắc Nhật Bản. Khi đội cứu hộ tiếp cận đống đổ nát của một ngôi nhà, họ phát hiện một người phụ nữ trẻ đã chết cơ thể cúi gập nghiêng về phía trước như đang cầu nguyện. Căn nhà đổ sập trên lưng chị, cơ thể đã cứng đờ của chị đang che chở cho một đứa bé ba tháng tuổi được quấn trong một chiếc chăn bông nằm trong lòng chị. Đứa bé được cứu sống.
 
Khi mở chiếc chăn quấn đứa bé, người ta tìm thấy chiếc điện thoại, trong đó có dòng tin nhắn “Nếu con có thể sống sót, con phải biết rằng mẹ rất yêu con.” Người mẹ trẻ đã trả giá cho tình yêu dành cho con bằng chính mạng sống của mình.
 
7. Lẽ phải và tình bạn
 
Một lá thư George Washington gửi cho vợ đề ngày 4-3-1797. Bức thư được viết ít lâu sau khi nhiệm kỳ tổng thống của ông kết thúc. Ông sắp xếp giấy tờ để quyết định xem loại nào giữ lại, và loại nào vứt đi. Ông viết cho vợ: “Em không thể tưởng tượng được cảm xúc của anh khi đọc lá thư cuối cùng của Thomas Paine. Anh ấy và anh đã từng là bạn của nhau. Nhưng chỉ vì anh nghĩ rằng anh ấy không đủ khả năng để làm tổng giám đốc ngành bưu chính, nên anh ấy đã buộc tội anh là “kẻ phản bội.”
 
Cũng như Chúa Giêsu, Washington đã rất đau khổ khi một người bạn quay lưng chống lại mình. Nhưng ông vẫn phải làm điều mà ông cho là đúng.
 
Tôi thường để cho tình bạn ngăn cản tôi làm theo lẽ phải như thế nào?
 
Bất cứ ai cũng có thể chống lại kẻ thù. Hãy cho tôi một người có thể chống lại một người bạn. (William Gladstone)


THỨ NĂM


Lời Chúa: Ga 13, 1-15
 
Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng. Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giuđa Iscariô, con Simon, ý định nộp Người. Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa.
 
Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy Người đến chỗ Simon Phêrô, ông này thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?" Chúa Giêsu đáp: "Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu." Phêrô thưa lại: "Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con." Chúa Giêsu bảo: "Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy." Phêrô liền thưa: "Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa." Chúa Giêsu nói: "Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu." Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: "Không phải tất cả các con đều sạch đâu."
 
Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: "Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con."
 

TRUYỆN KỂ - Bí tích của phục vụ
 
1. Bí tích của tình yêu.
 
Thánh Phaolô tông đồ trong thư gửi cho tín hữu Corintô nói: “Chúa Giêsu trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: “Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là mình Thầy sẽ bị nộp vì các con: các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (1Cr 11,23).
 
Cho đi là một sự mất mát, mất mát là một hy sinh, mà hy sinh là đau khổ, nhưng đau khổ vì tình yêu lại là một sự sung sướng vì đem lại niềm vui cho người mình yêu. Có một sự tương quan biện chứng giữa đau khổ và tình yêu, giữa mất và còn: hễ mất cái này thì còn cái khác. Điều kiện ắt có là hễ muốn còn cái này thì phải mất cái kia như hạt lúa phải thối đi để cho những bông lúa vàng nuôi sống con người. Con vật phải chết đi mới đem lại lương thực cho con người. Sự sống của con vật cũng như của thảo mộc phải mất đi để bảo đảm sự sống của con người.
 
Hy sinh cho người yêu những gì càng thiết yếu cho mình bao nhiêu thì quà tặng đó càng có giá trị. Thánh Têrêsa Calcutta nói: “Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với chúng ta, thì đó mới thật là món quà." Đức Giêsu không những đã trao ban mọi vinh quang trên trời, lại còn trao ban cả con người của Ngài thì món quà đó quí giá dường nào (x. Mt 26,26-28).
 
2. Giới Tử Thôi cắt thịt đùi mình.
 
Trên bước đường lưu vong, trốn ra nước ngoài, Công tử Trùng Nhĩ và bọn bề tôi trải qua rất nhiều cam go, lầm than, đói khổ. Không tiền bạc, hết lương thực, bọn người này phải đi ăn xin.
 
Một hôm đói quá, đói đến lả người, cả bọn cơ hồ không còn đi được nữa. Trùng Nhĩ phải kiếm gốc cây có bóng mát gối đầu vào đùi Hồ Mao mà nằm. Bọn bề tôi bảo nhau đi bứt rau sam về luộc ăn. Trùng Nhĩ nuốt không trôi! Bỗng Giới tử Thôi mang một bát thịt nóng hổi đến dâng.
 
Trùng Nhĩ ăn ngon lành! Ăn xong, khỏe khoắn liền hỏi Giới tử Thôi:
 
- Nhà ngươi lấy đâu được thịt ngon như thế?
 
Giới tử Thôi chỉ vào đùi mình, thưa:
 
- Ấy là thịt đùi của tôi đó. Tôi nghe rằng: nguời hiếu tử bỏ thân thờ cha, người trung thần bỏ thân để thờ vua. Nay Công tử đói không có gì ăn nên tôi phải cắt thịt đùi dâng Công tử.
 
Trùng Nhĩ ứa nước mắt, nói:
 
- Ân này, biết bao giờ ta đáp được.
 
3. Bà có phải là Chúa không?
 
Một em bé mồ côi, đầu trần, đi chân đất và mặc chiếc áo không đủ ấm trước những cơn gió đông buốt giá. Em đứng và dán cặp mắt thèm thuồng vào tấm kiếng của một tiệm bán quần áo, dày dép đang giờ đông khách. Bỗng một bàn tay ấm áp nắm lấy tay em và nói:
 
- Con vào đây với cô.
 
Quá bất ngờ nên em bước theo như một cái máy, và người phụ nữ ấy đã mua cho tất cả những gì em cần. Trước khi chia tay, cậu bé nhìn người phụ nữ với lòng biết ơn và ngập ngừng hỏi:
 
- Thưa bà, bà có phải là Chúa không?
 
Người phụ nữ cười hiền hậu:
 
- Không, cô chỉ là người môn đệ còn nhiều vụng về của Người.
 
Nói về yêu thương thì dễ, nhưng thực thi lòng mến đến độ chấp nhận phần thiệt về mình thì cần nhiều cố gắng. Nhưng khi dám hy sinh quyền lợi của bản thân vì thiện ích của tha nhân, chúng ta được nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, và qua đó giúp nhiều người nhận ra Đức Giêsu là Tình Yêu nhập thể đang ở giữa nhân loại.
 
Hôm nay chúng ta hợp với Giáo Hội tái diễn bữa tiệc ly của Đức Giêsu và các môn đệ, trong bữa ăn này Người đã thiết lập bí tích Thánh Thể và Truyền Chức. Tham dự thánh lễ và quì bên Thánh Thể Chúa, mỗi người cần tự hỏi: có khi nào tôi là một tín hữu tốt ở nhà thờ, nhưng trong sinh hoạt hằng ngày, thường nhìn tha nhân bằng ánh mắt lạnh lùng và cư xử với mọi người bằng trái tim băng giá?
 
Nếu có như vậy, chúng ta hãy xin lỗi Chúa và quyết tâm thay đổi cách sống. Chẳng những thế, cùng với lời cảm tạ vì được Chúa yêu thương, chúng ta xin cho các tín hữu siêng năng tham dự thánh lễ và rước lễ, để được thông hiệp với Mình và Máu Chúa Kitô, biết yêu thương phục vụ lẫn nhau theo gương Đấng đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ và hiến thân trên thập giá vì hạnh phúc của muôn người.
 
4. Ngọn đèn cũ
 
Ở châu Úc có một người thuộc thổ dân Aborigine sống trong cảnh cô độc thật thảm thương. Ông sống trong một túp lều xiêu vẹo khi tuổi đã già nua. Khởi đầu câu chuyện cho lần gặp đầu tiên, tôi đã đề nghị:
 
- Để tôi dọn dẹp nhà và sửa soạn giường ngủ cho ông.
 
Ông ta trả lời hững hờ:
 
- Tôi đã quen sống như vậy rồi.
 
- Nhưng ông sẽ cảm thấy dễ chịu hơn với căn nhà sạch sẽ và ngăn nắp.
 
Sau cùng ông ta bằng lòng để tôi dọn dẹp lại nhà cửa cho ông. Trong khi quét dọn tôi thấy một cái đèn cũ đẹp nhưng phủ đầy bụi bặm và bồ hóng. Tôi hỏi ông:
 
- Có bao giờ ông thắp đèn này chưa?
 
Ông ta trả lời cộc lốc:
 
- Nhưng thắp đèn để cho ai? Có ai bước chân vào nhà này bao giờ đâu? Tôi sống ở đây đã từ lâu không hề trông thấy mặt người nào cả.
 
Tôi hỏi ông:
 
- Nếu như có người tình nguyện đến thăm ông thường xuyên, ông có vui lòng thắp đèn lên không?
 
- Dĩ nhiên.
 
Từ ngày đó, các nữ tu quyết định mỗi chiều sẽ ghé qua nhà ông. Ông ta bắt đầu thắp đèn và dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ hơn. Ông còn sống thêm hai năm nữa. Trước khi qua đời ông nhờ các nữ tu ghé thăm nhắn tin giúp ông:
 
- Xin nhắn với mẹ Têrêsa, bạn tôi, rằng ngọn đèn mà mẹ thắp lên trong đời tôi vẫn còn chiếu sáng. Đó chỉ là một việc nhó mọn, nhưng trong bóng tối cô đơn của đời tôi, một tia sáng đã thắp lên và vẫn còn tiếp tục chiếu sáng mãi.
 
Ngọn đèn cũ không được thắp sẽ trở nên vô dụng và quên lãng nơi một xó xỉnh nào đấy, nhưng khi được châm vào một chút dầu tình yêu và sự bao dung thì nó đem đến sự sáng và sưởi ấm lòng người. Giờ đây, con người dù phải sống cô độc nhưng không còn cô đơn nữa vì bóng tối đã bị đẩy lui và nhường bước cho tình yêu và lòng bao dung của những đốm sáng nhỏ nơi con người, nơi nhân loại.
 
5. Thế nào là một tình yêu tột đỉnh:
 
Ngày nọ, một đôi vợ chồng bướm tranh cãi nhau. Con nào cũng cho rằng tình yêu của mình nhiều hơn bạn kia không ai chịu thua ai. Sau cùng để xác định hơn thua, bướm đực đề nghị: “Ngoài vườn có một cây hoa hồng mỗi sáng đều có nở một bông hồng rất đẹp. Vậy sáng mai chúng ta sẽ thi nhau xem: ai sẽ đến ngồi vào trong bông hoa hồng trước, khi nó vừa nở ra sẽ chứng tỏ mình có tình yêu nhiều hơn." Bướm cái gật đầu đồng ý.
 
Hôm sau, ngay từ sáng sớm bướm đực đã bay đến đứng chờ ngay bên bông hoa sắp nở, chờ khi nó vừa nở ra là chú sẽ chui vào trước bướm cái. Có điều khi sắp tới lúc hoa nở mà vẫn chưa thấy bướm cái xuất hiện. Rồi cuối cùng thì cũng tới lúc hoa nở, chú bướm liền nhanh chân chui vào. Nhưng chú rất ngạc nhiên khi thấy bướm cái đã có mặt trong bông hoa rồi. Có điều khi nhìn kỹ thì chú thấy bướm cái đã bị chết khô.
 
Thì ra để nắm chắc phần thắng, bướm cái đã bay đến cây hoa hồng ngay từ tối hôm trước. Cô bướm đã chui qua kẽ hở vào ngồi trong bông hoa. Cô định sáng sớm hôm sau khi hoa nở và gặp bướm đực cô sẽ chứng tỏ tình yêu cô dành cho chú thật lớn lao. Nhưng chẳng may cô lại bị chết ngạt trong bông hoa khi nó chưa nở!
 
6. Một ngôi thánh đường
 
Chân phước linh mục Antone Chevrier (Pháp) đã nói:
 
– Xin hãy giúp tôi xây dựng một ngôi thánh đường. Chỉ có ngôi thánh đường này mới cứu được thế giới.
 
Người ta ngạc nhiên bèn hỏi:
 
– Thưa Cha, ngôi thánh đường nào vậy?
 
Ngài nói tiếp:
 
– Tôi muốn làm hết sức để xây một ngôi thánh đường mà nền móng là những linh mục thánh thiện, các cột đỡ cũng là những linh mục thánh thiện, nhà tạm cũng là những linh mục thánh thiện, tòa giảng cũng là những linh mục thánh thiện và bàn thờ cũng là những linh mục thánh thiện.
 
Chỉ có ngôi thánh đường này mới cần thiết cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc!
 
7. Đây là người cứu tôi
 
Một em bé gái mồ côi cha mẹ, sống với bà ngoại, hai bà cháu sống trong một căn gác nghèo nàn. Một đêm nọ, căn gác bị hỏa hoạn, bà ngoại bị thiệt mạng khi cứu đứa cháu. Láng giềng gọi cứu hỏa tới, còn họ chỉ biết bó tay đứng nhìn ngọn lửa đang án ngữ mọi lối ra vào.
 
Bổng em bé gái xuất hiện trên cánh cửa sổ của căn gác và kêu cứu, nhưng đội cứu hỏa chưa đến, và cũng không ai dám liều mình đi vào căn nhà. Thình lình, có một người đàn ông xuất hiện với một chiếc thang, ông lao vào ngôi nhà và mất hút trong đó. Một lúc sau ông trở ra với bé gái trên tay, ông trao nó cho đám đông và biến mất.
 
Một tuần lễ sau, ông trưởng khu phố cho tổ chức một cuộc họp, để xem có ai nhận đứa bé về nuôi:
 
• Một cô giáo giơ tay xin nhận nuôi và dạy dỗ em nên người.
 
• Một chủ nông trại giàu có cũng ngỏ ý nhận nuôi.
 
• Nhiều người khác cũng giơ tay biểu lộ cùng một ý muốn.
 
• Cuối cùng người giàu có nhất khu phố nói: "Tôi có thể mang lại cho em bé này tất cả những tiện nghi mà quí vị vừa nêu, cộng với tiền bạc và tất cả những gì tiền bạc có thể mua được.
 
Trong khi đó , em bé gái lắng nghe, nhưng không để lộ một phản ứng nào, mắt em chỉ biết cúi nhìn xuống đất. Cuối cùng, người chủ trì buổi họp mới lên tiếng: "Còn ai muốn nói gì nữa không?"
 
Bấy giờ, từ cuối hội trường, có một người đàn ông tiến lên, dáng vẻ chậm chạp và nặng nề. Ông tiến đến gần đứa bé, ông dang cánh tay ra, mọi người đều thấy rõ vết cháy nám trên hai cánh tay ông.
 
Em bé gái nói như thét: "Đây là người đã cứu tôi." và em nhảy tới bá lấy cổ ông, áp mặt vào vai ông, khóc thổn thức. Rồi em lại ngước mắt nhìn ông mỉm cười, những giọt lệ lăn nhẹ trên đôi má ửng hồng của em.
 
8. Dấu hiệu môn đồ của Chúa
 
Một ngày nọ, chim thiên nga hỏi Chúa Tạo Vật (Đấng sáng tạo):
 
- Con có thể làm môn đồ của Ngài được chứ?
 
Chúa tạo vật vui vẻ trả lời: “Được, được."
 
Một lúc sau Chúa Tạo Vật nói với chim thiên nga:
 
- “Con nhìn xem con vịt mẹ đàng kia kìa, nó vừa kiếm ăn từ dưới bùn lầy đi lên đấy, chân nó quá dơ, con đến giúp rửa chân cho nó đi."
 
Chim thiên nga lắc đầu không chịu, nói to:
 
- “Làm môn đồ của Chúa Tạo Vật thì không thể nào đi rửa chân cho người khác."
 
Chúa Tạo Vật nói:
 
- “Này con, nếu con không rửa chân cho người khác, thì ai biết con là môn đồ của Ta chứ??” (1)
 
Câu chuyện nhỏ nhưng đạo lí thì lớn.
 
Phục vụ tha nhân không vì họ là anh em bà con của mình, nhưng vì họ là hình ảnh Đức Chúa Giê-su, là hình ảnh của Chúa Tạo Vật, bởi vì họ là anh em của mình trong đức ái.
 
9. Phép rửa bằng lửa
 
Michel Quoist đã diễn tả tình yêu vị tha Chúa đòi hỏi nơi mỗi linh mục, qua lời nguyện chiều Chúa nhật của một linh mục:
 
“Lạy Chúa, chiều nay con trơ trọi, những tiếng động trong nhà thờ lịm tắt dần. Những người đi chầu đi lễ đã về hết rồi và con cũng lủi thủi trở về nhà xứ, một thân, một bóng…
 
“Yên lặng làm con ngạt thở, cô đơn làm con bực dọc.
 
“Lạy Chúa, con cũng có một thân xác như bao nhiêu người khác, với những bàn tay để làm việc, với một quả tim được dành để yêu thương.”
 
Kỳ diệu làm sao cái tình yêu Chúa mang xuống trần gian! Với tình yêu, Chúa đã thực hiện một phép rửa không phải bằng nước, mà bằng lửa, một phép rửa thanh tẩy tôi sạch hẳn mọi vết nhơ tội lỗi: “Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa.” (Mt 3,11)
 
Chúa đã “mang lửa xuống trần gian” để thực hiện phép rửa đó. Ngọn lửa được trao cho tôi. Tôi có tiếp lửa đó, yêu như Chúa yêu, hay để lụi tàn?
 
10. Biết nhận và biết cho
 
Vậy Giới Răn Yêu của Chúa Giêsu dạy vừa biết nhận vừa biết cho. Vì khi Đức Giêsu rửa chân cho các môn đệ, đến lượt ông Phêrô, ông hoảng hốt la lên: “Không đời nào Thầy rửa chân cho con”, Đức Giêsu đáp lại: “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con không có phần nào với Thầy” (Ga 13, 8: Tin Mừng). Nói cách khác, ở đâu có tình yêu, ở đó có quà tặng. quà tặng là dấu tình yêu chuyển lưu từ người này đến người khác.
 
Có một bà mẹ khi dự tiệc, người ta đưa cho bà trái cam để ăn tráng miệng, nhưng vì nghĩ đến đứa con ở nhà, nên bà bỏ trái cam vào túi.
 
Đứa con thấy mẹ về nên hớn hở chạy ra đón, bà liền trao trái cam cho con. Em bé mừng quýnh cám ơn mẹ, rồi định lấy dao bổ cam ra ăn cho đỡ thèm! Nhưng em chợt nghĩ đến bố đang đạp xích lô nắng nôi thiêu cháy ngoài đường, em thương bố nên cất trái cam đợi bố về để tặng bố.
 
Khi ông bố vừa về đến nhà, em bé cầm trái cam chạy đến nói:
 
- Thưa bố, chắc bố mệt lắm, con có trái cam biếu bố ăn cho đỡ mệt nè, để con phụ đem xích lô vào nhà cho.
 
Ông bố vô cùng cảm động trước cử chỉ của con, ông cám ơn con và định không nhận, nhưng em cứ nằng nặc đòi bố phải lấy ăn cho đỡ mệt!
 
Cầm trái cam vào nhà, ông định lấy dao bổ ra cho hai cha con ăn. Nhưng ông chợt nghĩ: con mình còn bé mà còn biết cách làm cho cha mẹ vui, sao mình không biết nghĩ đến vợ đang vất vả trong bếp? Vì ở đâu có tình yêu ở đấy có quà tặng! Thế là ông chồng cầm ngay trái cam vào bếp tươi cười chào vợ và nói:
 
- Anh đi làm về, không có gì để tặng em, chỉ có trái cam này, em dùng cho đỡ mệt.
 
Như thế cả gia đình vợ chồng con cái đã biết sống lời thánh Gioan nói: “Đừng ai yêu bằng đầu lưỡi, nhưng yêu bằng việc làm thực sự!” (1Ga 3, 18). chỉ riêng Thiên Chúa cho chúng ta biết bao món quà quý giá, mà Ngài không nhận lại điều gì, vì sự giàu sang vinh quang của Ngài không bao giờ vơi cạn. Loài người không ai có thể cho người khác điều gì tốt nếu không biết nhận từ nơi Thiên Chúa. những ân lộc Chúa ban cho, không chỉ để ta hưởng dùng, mà còn để chia sẻ diễn tả tình yêu chân thật của ta, đó là cách tạ ơn Chúa, vì thế trong kinh Tiền Tụng Tạ Ơn, Hội Thánh cất lời chúc tụng: “Việc tạ ơn của chúng con không thêm gì cho Chúa nhưng đem lại ơn cứu độ cho chúng con.”
 
11. Rửa chân cho nhau
 
Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con.
 
Ngày 07/4/2020, sau hơn 400 ngày tạm giam, ĐHY George Pell được trả tự do với phán quyết cuối cùng của Tối Cao Pháp Viện Australia khẳng định ngài vô tội với tỷ số tuyệt đối 7/7.
 
Đức Hồng Y Pell mắc vào vụ án oan tháng 12 năm 2018, khi bị cáo buộc đã tấn công tình dục một bé trai 13 tuổi và lạm dụng đứa bạn của bé trai này ngay trong phòng thánh sau buổi lễ Chúa nhật năm 1996 tại nhà thờ Chính tòa St Patrick.
 
Cha Raymond de Souza, chủ bút tập san Convivium của Canada đã viết: “Đức Hồng Y George Pell, một người quyết liệt chống đồng tính. Vì thế, người ta gán cho ngài vào chính cái tội khốn nạn mà ngài lên án gay gắt nhất.”
 
Ngay khi nhận quyết định trả tự do của Tòa Tối cao Pháp viện Hồng Y Pell ra tuyên bố, trong đó ngài viết: “Tôi vẫn luôn xác định là mình vô tội, ngay khi phải chịu phán quyết vô cùng bất công, hôm nay, sự bất công đã được giải bày qua quyết định của Tòa án Tối Cao. Tôi mong được đọc bản án và lý do cho quyết định một cách chi tiết.
 
“Tôi không nghĩ xấu cho người tố cáo tôi, tôi cũng không muốn quyết định tha bổng tôi gây thêm tổn thương và cay đắng, mà nhiều người cảm thấy, chắc chắn đã có quá nhiều tổn thương và cay đắng.”
 
12. Tắm rửa cho Chúa
 
Ngày kia, Mẹ Têrêxa Calcutta hỏi một chị nữ tu thuộc dòng Thừa Sai Bác Ái của Mẹ:
 
- Suốt buổi sáng con đã làm gì?
 
Chị nữ tu thưa:
 
- Thưa Mẹ con đã tắm rửa cho Chúa Giêsu.
 
Thì ra, chị nữ tu đó mới bước ra từ nhà hấp hối, một căn phòng dành cho các bệnh nhân sắp qua đời. Chị mới tắm rửa cho một bệnh nhân phong cùi đang hấp hối. Chị gọi việc tắm rửa cho người ấy là tắm rửa cho Chúa Giêsu.
 
Chúa Giêsu đã yêu thương đến cùng, đến nỗi đã cúi xuống để phục vụ chúng ta, phục vụ đến hy sinh mạng sống vì chúng ta. Chúng ta hãy bắt chước Ngài để cũng biết phục vụ Chúa trong anh chị em mình, phục vụ như Chúa đã phục vụ.


THỨ SÁU


Lời Chúa: Ga 18, 1 - 19, 42
 
C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu
 
C. Bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Gioan.
 
Khi ấy, Chúa Giêsu đi với môn đệ sang qua suối Xêrông, ở đó có một khu vườn, Người vào đó cùng với các môn đệ. Giuđa, tên phản bội, đã biết rõ nơi đó, vì Chúa Giêsu thường đến đấy với các môn đệ. Nên Giuđa dẫn tới một toán quân cùng với vệ binh do các thượng tế và biệt phái cấp cho, nó đến đây với đèn đuốc và khí giới. Chúa Giêsu đã biết mọi sự sẽ xảy đến cho Mình, nên Người tiến ra và hỏi chúng: J. "Các ngươi tìm ai?" C. Chúng thưa lại: S. "Giêsu Nadarét." C. Chúa Giêsu bảo: "Ta đây." C. Giuđa là kẻ định nộp Người cũng đứng đó với bọn chúng. Nhưng khi Người vừa nói "Ta đây", bọn chúng giật lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi chúng: J. "Các ngươi tìm ai?" C. Chúng thưa: S. "Giêsu Nadarét." C. Chúa Giêsu đáp lại: "Ta đã bảo các ngươi rằng Ta đây! Vậy nếu các ngươi tìm bắt Ta, thì hãy để cho những người này đi." C. Như thế là trọn lời đã nói: "Con chẳng để mất người nào trong những kẻ Cha đã trao phó cho Con." Bấy giờ Simon Phêrô có sẵn thanh gươm, liền rút ra đánh tên đầy tớ vị thượng tế, chém đứt tai bên phải. Đầy tớ ấy tên là Mancô. Nhưng Chúa Giêsu bảo Phêrô rằng: J. "Hãy xỏ gươm vào bao. Chén Cha Ta đã trao lẽ nào Ta không uống!" C. Bấy giờ, toán quân, trưởng toán và vệ binh của người Do-thái bắt Chúa Giêsu trói lại, và điệu Người đến nhà ông Anna trước, vì ông là nhạc phụ của Caipha đương làm thượng tế năm ấy. Chính Caipha là người đã giúp ý kiến này cho người Do-thái: để một người chết thay cho cả dân thì lợi hơn. Còn Phêrô và môn đệ kia vẫn theo Chúa Giêsu. Môn đệ sau này quen vị thượng tế nên cùng với Chúa Giêsu vào trong sân vị thượng tế, còn Phêrô đứng lại ngoài cửa. Vì thế, môn đệ kia là người quen với vị thượng tế, nên đi ra nói với người giữ cửa và dẫn Phêrô vào. Cô nữ tì gác cửa liền bảo Phêrô: S. "Có phải ông cũng là môn đệ của người đó không?" C. Ông đáp: S. "Tôi không phải đâu."
 
C. Đám thủ hạ và vệ binh có nhóm một đống lửa và đứng đó mà sưởi vì trời lạnh, Phêrô cũng đứng sưởi với họ. Vị thượng tế hỏi Chúa Giêsu về môn đệ và giáo lý của Người. Chúa Giêsu đáp: J. "Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ, Tôi thường giảng dạy tại hội đường và trong đền thờ, nơi mà các người Do-thái thường tụ họp, Tôi không nói chi thầm lén cả. Tại sao ông lại hỏi Tôi? Ông cứ hỏi những người đã nghe Tôi về những điều Tôi đã giảng dạy. Họ đã quá rõ điều Tôi nói." C. Nghe vậy, một tên vệ binh đứng đó vả mặt Chúa Giêsu mà nói: S. "Anh trả lời vị thượng tế như thế ư." C. Chúa Giêsu đáp: J. "Nếu Ta nói sai, hãy chứng minh điều sai đó; mà nếu Ta nói phải, thì tại sao anh lại đánh Ta?" C. Rồi Anna cho giải Người vẫn bị trói đến cùng vị thượng tế Caipha. Lúc ấy Phêrô đang đứng sưởi. Họ bảo ông: S. "Có phải ông cũng là môn đệ người đó không?" C. Ông chối và nói: S. "Tôi không phải đâu." C. Một tên thủ hạ của vị thượng tế, có họ với người bị Phêrô chém đứt tai, cãi lại rằng: S. "Tôi đã chẳng thấy ông ở trong vườn cùng với người đó sao?" C. Phêrô lại chối nữa, và ngay lúc đó gà liền gáy.
 
Bấy giờ họ điệu Chúa Giêsu từ nhà Caipha đến pháp đình. Lúc đó tảng sáng và họ không vào pháp đình để khỏi bị nhơ bẩn và để có thể ăn Lễ Vượt Qua. Lúc ấy Philatô ra ngoài để gặp họ và nói: S. "Các ngươi tố cáo người này về điều gì." C. Họ đáp: S. "Nếu hắn không phải là tay gian ác, chúng tôi đã không nộp cho quan." C. Philatô bảo họ: S. "Các ông cứ bắt và xét xử theo luật của các ông." C. Nhưng người Do-thái đáp lại: S. "Chúng tôi chẳng có quyền giết ai cả." C. Thế mới ứng nghiệm lời Chúa Giêsu đã nói trước: Người sẽ phải chết cách nào. Bấy giờ Philatô trở vào pháp đình gọi Chúa Giêsu đến mà hỏi: S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?" C. Philatô đáp: S. "Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng nước tôi không thuộc chốn này." C. Philatô hỏi lại: S. "Vậy ông là Vua ư?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Quan nói đúng: Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng tôi." C. Philatô bảo Người: S. "Chân lý là cái gì?" C. Nói lời này xong, ông lại ra gặp người Do-thái và bảo họ: S. "Ta không thấy nơi người này có lý do để khép án. Nhưng theo tục lệ các ngươi, ta sẽ phóng thích cho các ngươi một tù nhân vào dịp Lễ Vượt Qua. Vậy các ngươi có muốn ta phóng thích Vua Do-thái cho các ngươi chăng?" C. Họ liền la lên: S. "Không phải tên đó, nhưng là Baraba." C. Baraba là một tên cướp. Bấy giờ Philatô truyền đem Chúa Giêsu đi mà đánh đòn Người. Binh sĩ kết một triều thiên bằng gai nhọn đội lên đầu Người và nói: S. "Tâu Vua Do-thái!" C. Và vả mặt Người. Philatô lại ra ngoài và nói: S. "Đây ta cho dẫn người ấy ra ngoài cho các ngươi để các ngươi biết rằng ta không thấy nơi người ấy một lý do để kết án." C. Bấy giờ Chúa Giêsu đi ra, đội mão gai và khoác áo đỏ. Philatô bảo họ: S. "Này là Người." C. Vừa thấy Người, các thượng tế và vệ binh liền la to: S. "Đóng đinh nó vào thập giá! Đóng đinh nó vào thập giá!" C. Philatô bảo họ: S. "Đấy các ngươi cứ bắt và đóng đinh ông vào thập giá, phần ta, ta không thấy lý do nào kết tội ông." C. Người Do-thái đáp lại: S. "Chúng tôi đã có luật, và theo luật đó nó phải chết, vì nó tự xưng là Con Thiên Chúa." C. Nghe lời đó Philatô càng hoảng sợ hơn. Ông trở vào pháp đình và nói với Chúa Giêsu: S. "Ông ở đâu đến?"
 
C. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại câu nào. Bấy giờ Philatô bảo Người: S. "Ông không nói với ta ư? Ông không biết rằng ta có quyền đóng đinh ông vào thập giá và cũng có quyền tha ông sao?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Quan chẳng có quyền gì trên tôi, nếu từ trên không ban xuống cho, vì thế nên kẻ nộp tôi cho quan, mắc tội nặng hơn." C. Từ lúc đó Philatô tìm cách tha Người. Nhưng người Do-thái la lên: S. "Nếu quan tha cho nó, quan không phải là trung thần của Xêsa, vì ai xưng mình là vua, kẻ đó chống lại Xêsa." C. Philatô vừa nghe lời đó, liền cho điệu Chúa Giêsu ra ngoài rồi ông lên ngồi toà xử, nơi gọi là Nền đá, tiếng Do-thái gọi là Gabbatha. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu ngày chuẩn bị Lễ Vượt Qua. Philatô bảo dân: S. "Đây là vua các ngươi." C. Nhưng họ càng la to: S. "Giết đi! Giết đi! Đóng đinh nó đi!" C. Philatô nói: S. "Ta đóng đinh vua các ngươi ư?" C. Các thượng tế đáp: S. "Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Xêsa." C. Bấy giờ quan giao Người cho họ đem đóng đinh.
 
Vậy họ điệu Chúa Giêsu đi. Và chính Người vác thập giá đến nơi kia gọi là Núi Sọ, tiếng Do-thái gọi là Golgotha. Ở đó họ đóng đinh Người trên thập giá cùng với hai người khác nữa: mỗi người một bên, còn Chúa Giêsu thì ở giữa. Philatô cũng viết một tấm bảng và sai đóng trên thập giá. Bảng mang những hàng chữ này: "Giêsu, Nadarét, vua dân Do-thái." Nhiều người Do-thái đọc được bảng đó, vì nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh thì gần thành phố, mà bảng viết thì bằng tiếng Do-thái, Hy-lạp và La-tinh. Vì thế các thượng tế đến thưa với Philatô:
 
S. Xin đừng viết "Vua dân Do Thái", nhưng nên viết: "Người này đã nói: 'Ta là vua dân Do-thái'." C. Philatô đáp: S. "Điều ta đã viết là đã viết." C. Khi quân lính đã đóng đinh Chúa Giêsu trên thập giá rồi thì họ lấy áo Người chia làm bốn phần cho mỗi người một phần, còn cái áo dài là áo không có đường khâu, đan liền từ trên xuống dưới. Họ bảo nhau: S. "Chúng ta đừng xé áo này, nhưng hãy rút thăm xem ai được thì lấy." C. Hầu ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Chúng đã chia nhau các áo Ta và đã rút thăm áo dài của Ta." Chính quân lính đã làm điều đó.
 
Đứng gần thập giá Chúa Giêsu, lúc đó có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria, vợ ông Clopas và Maria Mađalêna. Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng: J. "Hỡi Bà, này là con Bà." C. Rồi Người lại nói với môn đệ: J. "Này là Mẹ con." C. Và từ giờ đó môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình. Sau đó, vì biết rằng mọi sự đã hoàn tất, để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm, Chúa Giêsu nói: J. "Ta khát!" C. Ở đó có một bình đầy dấm. Họ liền lấy miếng bông biển thấm đầy dấm cắm vào đầu ngành cây hương thảo đưa lên miệng Người. Khi đã nếm dấm rồi, Chúa Giêsu nói: J. "Mọi sự đã hoàn tất." C. Và Người gục đầu xuống trút hơi thở cuối cùng.
 
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
 
Hôm đó là ngày chuẩn bị lễ: để tội nhân khỏi treo trên thập giá trong ngày Sabbat, vì ngày Sabbat là ngày đại lễ, nên người Do-thái xin Philatô cho đánh dập ống chân tội nhân và cho cất xác xuống. Quân lính đến đánh dập ống chân của người thứ nhất và người thứ hai cùng chịu treo trên thập giá với Người. Nhưng lúc họ đến gần Chúa Giêsu, họ thấy Người đã chết, nên không đánh dập ống chân Người nữa, tuy nhiên một tên lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người; tức thì máu cùng nước chảy ra. Kẻ đã xem thấy thì đã minh chứng, mà lời chứng của người đó chân thật, và người đó biết rằng mình nói thật để cho các người cũng tin nữa. Những sự việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Người ta sẽ không đánh dập một cái xương nào của Người." Lời Kinh Thánh khác rằng: "Họ sẽ nhìn xem Đấng họ đã đâm thâu qua."
 
Sau đó, Giuse người xứ Arimathia, môn đệ Chúa Giêsu, nhưng thầm kín vì sợ người Do-thái, xin Philatô cho phép cất xác Chúa Giêsu. Philatô cho phép. Và ông đến cất xác Chúa Giêsu. Nicôđêmô cũng đến, ông là người trước kia đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Ông đem theo chừng một trăm cân mộc dược trộn lẫn với trầm hương. Họ lấy xác Chúa Giêsu và lấy khăn bọc lại cùng với thuốc thơm theo tục khâm liệm người Do-thái. Ở nơi Chúa chịu đóng đinh có cái vườn và trong vườn có một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai. Vì là ngày chuẩn bị lễ của người Do-thái và ngôi mộ lại rất gần, nên họ đã mai táng Chúa Giêsu trong mộ đó.
 
TRUYỆN KỂ - Thủ phạm giết Chúa.
 
1. Một Đấng khác đã nghĩ đến tôi
 
Khi George Nixon Biggs làm Thống Đốc bang Massachusetts, có 3 người bạn của ông đi viếng thánh điạ. Họ leo lên đỉnh núi Gôngôtha, bẻ một nhánh cây làm gậy.
 
Khi trở về, họ tặng vị Thống Đốc cây gậy và nói: “Chúng tôi muốn Ngài biết cho rằng, khi đứng trên đỉnh đồi Canvê, chúng tôi đã nghỉ tới ngài."
 
Thống Đốc hết lòng cảm ơn họ, ưu ái nhận quà tặng và nói thêm: “Nhưng thưa các bạn, tôi còn nghĩ xa hơn: ở đó, có một Đấng khác cũng đã nghĩ tới tôi”
 
2. Dấu hiệu của Đức Kitô
 
Có một lần nhà truyền giáo hỏi lớp Giáo Lý Thánh kinh: “Nếu các bạn thấy một nhóm 12 người đàn ông rất giống nhau, trong đó có Đức Kitô, làm sao các bạn nhận ra Ngài? Nhiều người bải không biết. Nhưng một em bé nói: “Nhờ những dấu đanh trên tay Ngài”
 
3. Người đã chết vì tôi
 
Người ta kể rằng:có một người khách du lịch, một lần kia vào xem một nghĩa địa nhà binh ở Nashville. Người ấy thấy một người đàn ông đang lấy hoa đặt trên một nấm mộ. Người du lịch thấy thế, mới hỏi:
 
- Đây là mộ của con ông, phải không?
 
- Thưa ngài, không.
 
- Của một người bà con ông, phải không?
 
- Thưa ngài, không.
 
- Thế sao ông đặt hoa lên mộ?
 
Người kia cảm động, bỏ hoa xuống kể cho người du lịch nghe. Đó là khi chiến tranh bùng nổ, chính phủ bắt tôi phải đi động viên. Mà nhà tôi nghèo không thể có tiền để thuê người khác đi giúp. Nên tôi đành phải tuân lệnh chính phủ chuẩn bị lên đường. Đang khi tôi thu dọn đồ đạc và từ giã vợ con, thì một người bạn đến bảo: “Anh còn vợ và nhiều cháu dại, nếu anh đi sẽ không có ai làm ăn để nuôi chúng, nên anh hãy ở lại nhà, để tôi đi thay cho." Tôi vui mừng sung sướng để người bạn đi thay.
 
Chẳng may sau ít lâu bạn tôi bị thương nặng ở một mặt trận rồi chết. Người ta chôn bạn tôi ở nghĩa địa này. Được tin, tôi đã vội vã đi tìm mộ bạn tôi và ngày hôm qua tôi đã tới đây tìm được mộ của bạn tôi.."
 
Rồi người đó lấy một mảnh ván viết chữ: “Người đã chết vì tôi” để đặt trên mộ người bạn.
 
Kể lại câu chuyện anh hùng của một người đi lính để chết thay cho bạn, tôi muốn nhắc cho anh chị em biết tới cái chết thê thảm của Chúa Giêsu, Đấng đã liều mạng sống, Đấng đã hy sinh thịt máu mình, Đấng đã chịu đóng đinh trên cây Thánh giá để cứu chuộc không những một người, một gia đình, một dân tộc, mà còn để cứu chuộc tất cả nhân loại, không những Ngài chết thay tội cho một thế hệ, mà cho mọi thế hệ, mọi thời đại. Chúa Giêsu chính là Đấng chăn chiên nhân lành, hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên.
 
4. Cái giá của tình yêu
 
Một người lính Rôma bị đưa ra trước tòa án, anh ta xin yết kiến hoàng đế César và xin hoàng đế đến tòa án bênh vực và bầu chữa cho mình.
 
Hoàng đế César hết sức bỡ ngỡ vì thấy anh lính kia dám táo bạo như thế. Nhưng tỏ ra mình là người đại độ, cao thượng, ngài bèn phán với anh: “Ta sẽ cho một vị quan đi thay."
 
Tức thì người lính đó cởi áo ra, chỉ vào vết thương mà tâu: “Tâu ngài César, khi đánh trận, lúc tôi thấy một mũi tên sắp bắn tới ngài, chính tôi đã đứng ra đỡ mũi tên cho ngài."
 
Chúng ta cũng vậy, nếu Chúa Giêsu đã không tìm người khác chịu đòn, chịu xỉ vả, đội mạo gai, vác thánh giá và chịu đóng đinh thay cho Ngài, thì chúng ta cũng đừng ngại chịu đau khổ, hy sinh vì Chúa. Chúa đã chết cho ta thì chúng ta cũng phải chết cho Chúa. Mọi tình yêu chỉ có thể đáp trả bằng tình yêu, và cái chết chỉ có thể trả bằng cái chết.
 
5. Chết mà vẫn sống
 
Ngày 5/9/1997, cả thế giới bàng hoàng và xúc động khi nghe tin Mẹ Têrêsa chết, chết tại thành phố Calcutta, sau một cơn đau tim đột ngột, hưởng thọ 87 tuổi.
 
Ngay sau cái chết của mẹ, báo chí đã đưa lên trang nhất những hàng tít lớn: "Mẹ của những người nghèo khổ đã ra đi"
 
- "Vị nữ thánh của những người cùng khổ không còn nữa"
 
- "Vị nữ thánh giữa đời thường đã vĩnh viễn ra đi."
 
Không phải chỉ thế giới đau buồn và cảm động trước cái chết của mẹ, mà nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới cũng bày tỏ lòng thương tiếc sâu sắc. Tổng thống Pháp Jacques Chirac đã gửi đến Calcutta bức điện chia buồn như sau: "Buổi tối hôm nay đã có ít tình yêu hơn, ít lòng trắc ẩn hơn và cũng ít ánh sáng hơn trên thế giới."
 
Tổng Thống Mỹ Bill Clinton đã nói: "Mẹ là người luôn gây ngạc nhiên, một trong những vĩ nhân của thời đại này."
 
Thủ tướng Tony Blair của nước Anh đã gửi đến Calcutta lời phân ưu: "Trong một tuần đầy bi kịch, thế giới lại càng buồn hơn vì một trong những người phục vụ nhiều lòng trắc ẩn nhất đã ra đi."
 
Nước Albani, quê hương thứ nhất của mẹ tuyên bố "Cả nước sẽ để tang mẹ ba ngày."
 
Tại Ấn Độ, nơi người Công giáo chỉ là thiểu số, thủ tướng Inder Kamar đã tuyên bố tổ chức lễ an táng mẹ tại sân vận động quốc gia New Delhi theo nghi thức quốc táng.
 
Vâng, đó là một cái chết, cái chết thật đẹp, đẹp còn hơn một giấc mơ. Ngày an táng mẹ, Đức Thánh Cha đã cử đặc sứ của Ngài tới. Rất nhiều nhà lãnh đạo đạo đời trên thế giới đã có mặt. Từ trước cho đến nay, chưa có nhà lãnh đạo nào trên thế giới này, được yêu thương đến như thế.
 
Mẹ Têresa đã chết.
 
Và gần 2000 năm trước Chúa Giêsu cũng đã chết.
 
Ngài đã chết, một cái chết mà Ngài đã báo trước: "Con Người sẽ bị nộp cho các Thượng tế và Kinh sĩ. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, sẽ đánh đòn và giết chết Người."
 
6. Yêu đến cùng
 
Noel năm 1944, quân đội đồng minh đã chiếm lại được nước Pháp. Tại ngôi làng Baccarat, các phụ nữ đứng xếp hàng lãnh khẩu phần. Một bà già yếu quá, đứng không nổi, nên phải ngồi ra ngoài hàng, tay cầm một cái lon. Thấy thế, anh lính Mỹ James Kilpatrick bước tới tặng cho bà khẩu phần của anh, rồi sau đó, trong thời gian còn đóng quân ở Baccarat, anh thường đến thăm và an ủi bà trong cảnh lẻ loi.
 
Sau khi hồi hương, một hôm người ta báo cho anh biết có một phụ nữ Pháp tên là Marchal qua đời, để lại cho anh 50 ngàn đôla. Thế là anh có đủ tiền để thực hiện giấc mộng đóng vai ca sĩ trong phim của mình, và trở thành nghệ sĩ Jimmy nổi tiếng đã hát trong nhiều phim có giá trị.
 
Jimmy thành đạt trong mơ ước trở nên một tài tử phần lớn nhờ vào một hành động nhỏ bé mà quí giá của ơn gọi làm người, là sống bác ái.
 
Đến cứu độ trần gian, Đức Kitô đã không làm gì khác hơn là sống và rao giảng một tình yêu tuyệt đối, yêu đến cùng: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1).
 
7. Chiến thắng của thập giá
 
Có một thiếu nữ nô lệ da đen đạo đức và trung thành nên được chủ quí mến. Mỗi khi chọn thêm đầy tớ mới, ông để cô chọn lựa giùm ông. Một hôm cô lại chọn một ông già có tật. Ông chủ nhất định không chịu mua vì nghĩ rằng hắn chẳng được việc gì, nhưng cô nữ tì đó nài nỉ mãi nên buộc lòng ông phải mua người nô lệ già cả tật nguyền đó.
 
Ít lâu sau, người nô lệ già này bị bệnh nặng và được cô nữ tì đó tận tình săn sóc như một người con thảo. Ông chủ ngạc nhiên hỏi:
 
- Ông ấy là cha cháu hay sao mà cháu chăm sóc kỹ như thế.
 
- Thưa ông, đó không phải là bố cháu, cũng không phải là bà con của cháu, mà còn là kẻ thù của cháu nữa. Khi cháu còn nhỏ, ông ta đã bắt cóc cháu để bán như một đứa nô lệ. Cháu làm thế, vì cháu tin vào chiến thắng sau cùng của tình yêu Đức Kitô.
 
Tình yêu Đức Kitô đã chiến thắng, và cây thập giá được dựng lên khắp nơi. Ở đâu có cây thập giá ở đó vang lên lời ca “Đây là cây thánh giá, nơi treo Đấng cứu độ trần gian - chúng ta hãy đến thờ lạy.”
 
8. Đau khổ là con đường
 
... Cha Anselm Gruen là đan sĩ Biển-đức của đan viện Muensterschwarzach thuộc bang Bavière ở miền Nam nước Đức. Cha là Linh Mục trị liệu tâm linh và là vị đồng hành thiêng liêng vô cùng cao quý. Cha cũng là tác giả của nhiều sách báo rất được độc giả yêu thích. Tác phẩm mới nhất của Cha mang tựa đề: ”Trời Cao nơi chính bạn. Hành Trình tự do nội tâm." Xin nhường lời cho Cha nói về cách thức sống mầu nhiệm đau khổ trong cuộc đời tín hữu Công Giáo.
 
Mùa Chay rồi đến Tuần Thánh không ngừng đặt trước mắt chúng ta hình ảnh Đức Chúa Giêsu Kitô chịu đau khổ. Và cứ mỗi lần chúng ta tuyên xưng Đức Tin chúng ta lập lại rằng chính Người cứu chuộc chúng ta bằng cái chết của Người trên Thánh Giá. Thế nhưng chúng ta vẫn luôn luôn nêu thắc mắc:
 
- Tại sao lại phải cứu chuộc bằng đau khổ?
 
Ban đầu, hai môn đệ trên đường Emmau cũng không hiểu tại sao Đức Chúa Giêsu - vị đại tiên tri mà họ từng mong đợi cứu thoát và giải phóng - đã bị đóng đinh trên Thánh Giá! Nhưng Đức Chúa Giêsu giải thích cho họ hiểu rằng: ”Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Luca 24,26).
 
Câu giải thích của Đức Chúa Giêsu như muốn chỉ cho chúng ta thấy một hướng đi. Thật vậy, đau khổ đập vào Người đến từ bên ngoài, không thể tiêu diệt Người. Trái lại, đau khổ chỉ là cuộc vượt qua đưa Người vào vinh quang.
 
9. Sức mạnh của thập giá
 
Vào năm 1856, các nhà khảo cổ đã thực hiện một cuộc khám phá đầy thú vị tại đồi Palatino ở Rôma.
 
Khi đào bới lớp đất bao phủ một trại lính Rôma cổ, trên vách một bức tường họ tìm thấy một cây thập giá được một người lính nào đó dùng đinh hay mũi dao cắt một cách vụng về trên tường. Bên cạnh thập giá là hình một chàng thanh niên giơ tay chào kính thập giá. Trên thập giá có vẽ hình một người nhưng đầu ấy là hình một con lừa.
 
Dưới hai bức hình người ta thấy có viết hàng chữ: "Alexandre Menos thờ lạy Chúa của hắn." Các nhà khảo cổ cho rằng có thể bức tranh đã được thực hiện khoảng giữa những năm 123 và 126 sau công nguyên. Nếu sự phỏng đoán về niên biểu này đúng thì đây có lẽ là hình vẽ về thập giá cổ xưa nhất và đồng thời cũng là một thập giá bị nhạo báng. Người ta có thể đọc được ý tưởng đàng sau hình vẽ ấy như sau: "Nếu Thiên Chúa mà chết trên thập giá thì đây là một hành động yếu hèn, khờ dại như hành động của một con lừa. Và cả những người thờ lạy Thiên Chúa trên thập giá cũng là những kẻ ngu dại như lừa."
 
Vào năm 1870, các nhà khảo cổ đã tìm được câu trả lời mà họ nghĩ là của một chàng thanh niên mang niềm tin kitô tên là Alexandre Menos. Ở một cột trụ bằng đá dựng hình một vị thần vốn là thần của chiến tranh, người ta lại đọc được dòng chữ như sau: "Alexandre Menos vẫn vững tin."


THỨ BẢY

Lời Chúa: 
TRUYỆN KỂ
1. A


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn