LỜI CHÚA TUẦN 23 THƯỜNG NIÊN
GIA VỊ CHO BÀI GIẢNG

CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN - Năm A - Năm B - Năm C –
NGÀY THƯỜNG – Thứ Hai - Thứ Ba - Thứ Tư - Thứ Năm - Thứ Sáu - Thứ Bảy –
NGOẠI LỊCH – Lễ Suy tôn Thánh giá - Lễ Đức Mẹ sầu bi -
CNTN 23A - SỬA LỖI ANH EM
Lời Chúa: Mt 18, 15-20
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em. Nếu nó không nghe lời ngươi, hãy đem theo một hoặc hai người nữa, để mọi việc được giải quyết nhờ lời hai hoặc ba nhân chứng. Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Và nếu nó cũng không nghe cộng đoàn, ngươi hãy kể nó như người ngoại giáo và như người thu thuế.
"Thầy bảo thật các con, những gì các con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, và những gì các con tháo gỡ dưới đất, thì trên trời cũng tháo gỡ.
"Thầy lại bảo các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy."
TRUYỆN KỂ
1. Liên hệ với người khác.
Tại một học viện quân sự, ngày kia huấn luyện viên ra đề tài cho các sĩ quan hãy vẽ một chiếc cầu. Cả lớp đều hiểu đó là một chiếc cầu được thiết kế cho mục đích quân sự, trừ ra một chàng sĩ quan có ý kiến khác hẳn. Anh đặt chiếc cầu trong bối cảnh thơ mộng của một ngọn núi, dưới ngọn núi là dòng sông mà hai bên bờ là những thảm cỏ xanh. Nổi bật nhất là hai cậu bé đang đứng trên cầu để câu cá. Huấn luyện viên không chấp thuận bài làm của anh và ra lệnh cho anh phải loại bỏ hai cậu bé. Thế là anh liền chuyển hai cậu bé xuống thảm cỏ xanh, nhưng huấn luyện viên càng tỏ ra tức tối, buộc anh không được để lại hình ảnh hai cậu bé trong bản vẽ. Cuối cùng anh vẽ hai cái mộ trên thảm cỏ xanh của bờ sông. Anh muốn nói cho huấn luyện viên biết rằng mình đã chôn hai cậu bé trong hai ngôi mộ đó.
Với tâm hồn nghệ sĩ hoàn toàn khác biệt với mục tiêu quân sự, anh quan niệm chiếc cầu được xây là để nối liền hai bờ sông hầu giúp con người qua lại mà liên hệ được với nhau. Thiếu sự đi lại của con người, chiếc cầu không những trở nên vô nghĩa, mà còn tượng trưng cho sự chết chóc xảy ra giữa con người với nhau.
2. Giúp người khác nhận ra lỗi của mình
Một buổi chiều nọ, vua Đavít tản bộ trên sân thượng và chợt thấy một phụ nữ xinh đẹp đang tắm, đó là bà Bat-shêba, vợ của Uria. Vua sai người đưa bà đến với vua. Ít lâu sau đó, Bat-shêba báo tin cho vua hay là bà đã có thai với nhà vua.
Khi biết chuyện, vua Đavít tìm cách ‘bán cái’ cho chồng của bà là Uria.
Vua cho triệu Uria từ mặt trận trở về, cho ông ta ăn uống thật no say rồi truyền cho Uria về nhà thăm vợ. Hai đêm liền, Uria nằm ngủ trong đền vua với những tên lính canh mà không chịu về nhà.
Thấy kế hoạch ‘bán cái’ không xong, vua Đavít ra lệnh cho tướng Yôab mượn tay quân giặc giết chết U-ria ngoài chiến trường.
Sau đó, khi đã mãn tang chồng, Bat-shêba được vua Đavít đón vào cung làm vợ chính thức của nhà vua. ( II Sam 11 và 12)
Vua Đavít đã phạm một tội tày trời, thế mà vẫn ung dung như không có gì xảy ra. Đúng là trong hàng trăm lần phạm lỗi, may ra chỉ có một lần người ta nhận ra mình có tội. Và một khi con người không tự thấy được tội lỗi của mình để ăn năn sám hối thì cần phải có ai đó đến nhắc bảo họ.
Thế là Thiên Chúa sai tiên tri Natan đến cảnh tỉnh vua. Khuyên vua thì phải lựa lời, không khéo thì mất đầu như chơi. Nhà tiên tri trình với vua: “Trong thành kia, có một người giàu sang phú quý có cả đến hàng ngàn chiên dê và bò, trong khi đó, một người nghèo bên cạnh chỉ có một con chiên nhỏ mà ông ta rất yêu quý, coi như đứa con gái của ông. Thế rồi khi người giàu có khách, ông tiếc của không dám bắt chiên mình đãi khách mà lại cho tôi tớ đi bắt con chiên độc nhất của người nghèo làm thịt."
Nghe đến đây, vua Đavít bừng bừng nổi giận. Vua quát: “Nó đáng chết, tên ác nhân đó! Nó phải bị trừng phạt và phải bồi thường gấp bốn vì việc nó đã làm.”
Tiên tri Natan thưa: “Người ấy chính là vua. Nhà vua đã có nhiều thê thiếp lại còn nhẫn tâm giết chết Uria và cướp vợ của ông ta."
Bấy giờ vua Đavít mới nhận ra tội mình và ăn năn khóc lóc thảm thiết.
3. Sữa lỗi cho nhau
Bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra những bước sửa lỗi anh em.
– Bước thứ nhất là đối thoại. Đối thoại là giúp họ nhận ra việc họ làm, lời họ nói là sai. Đối thoại để họ nhận ra lầm lỗi, để họ ý thức được việc họ làm, lời họ nói là xấu, là sai với đạo lý làm người.
– Bước thứ hai cần thêm người khác tác động. Có thể là bạn bè thân hữu của người phạm lỗi, hay có thể là người có uy tín trong cộng đoàn. Người khác tác động là người có liên quan đến người phạm lỗi chứ không phải bạ ai cũng nói, gặp ai cũng chia sẻ, làm như thế người có lỗi chỉ thêm mặc cảm vì lỗi của mình, và oán ghét chúng ta hơn là biết ơn chúng ta.
– Bước thứ ba là đưa ra cộng đồng. Người ta vẫn thường nói “xã có phép tắc của xã. Làng có khuôn phép của làng." Mỗi một đơn vị đều có những lề thói giúp nhau sống kỷ cương và đảm bảo an ninh xã hội. Thế nên, cộng đồng sẽ giúp cho con người sống tốt hơn và cho môi trường sống được lành mạnh và an bình hơn
– Bước thứ tư: hãy cùng nhau hợp lời cầu nguyện cho họ. Trên hết mọi sự là hãy cầu nguyện cho người anh em chúng ta. Lời cầu nguyện của chúng ta vì nhu cầu cộng đoàn và cho cộng đoàn sẽ được Chúa chấp nhận.
4. Con hư tại mẹ
Có một đứa trẻ từ nhỏ đã thích ăn trộm. Một hôm, nó đi học về, trong cặp có thêm một chiếc bảng học sinh. Mẹ nó hỏi:
– Sao con lại có tới hai chiếc bảng?
Đứa con đáp:
– Một cái là của bạn cùng lớp với con. Con đã lén lấy cho vào cặp đấy.
Bà mẹ vui mừng nói:
– Con của mẹ thật thông minh. Hai cái bảng chắc chắn là tốt hơn một cái rồi.
Ít lâu sau, đứa con lại mang về một cái áo da, trị giá 50 quan tiền. Đứa con đưa chiếc áo da cho mẹ, mẹ nó khen:
– Con trai của mẹ thật là giỏi, biết hiếu thảo với mẹ. Ra mẹ thơm một cái nào.
Đứa con trai ngày một lớn lên, càng ngày càng lấy trộm những thứ có giá trị hơn. Hôm nay ăn trộm bò, ngày mai ăn trộm ngựa, ngày hôm sau trộm vàng bạc châu báu. Bà mẹ luôn luôn khen ngợi con, trong nhà thiếu thứ gì, liền bảo với con trai để nó đi trộm về.
Có một lần, đứa con ăn trộm đồ bị người ta bắt quả tang, giải lên quan phủ. Vì hắn trộm quá nhiều thứ nên bị phạt tội chết. Tên trộm bị trói hai tay ra sau lưng, giải ra pháp trường. Mẹ hắn đi theo sau, khóc lóc thảm thiết. Tại pháp trường, tên trộm xin quan cho hắn được nói với mẹ vài lời. Khi bà mẹ bước tới gần, hắn liền cắn mạnh vào tai mẹ. Mẹ hắn đau quá kêu toáng lên, lớn tiếng mắng con:
– Mày thật là đồ bất hiếu, tự mình phạm tội chết còn chưa đủ hay sao mà còn muốn làm mẹ thành tật à?
Đứa con giận dữ nói với mẹ hắn:
– Lần đầu tiên tôi ăn trộm cái bảng về, nếu bà đánh tôi một trận và dạy bảo tôi thì tôi không đến nỗi như ngày hôm nay và đã không bị xử tội chết.
5. Hào quang của tha thứ
Theo ABC News, ông Yigal Cohen, một người Itraen bị đau tim nặng vừa nhận được trái tim của một người Palestin trong cuộc phẫu thuật ngày 5-6-2000, Gia đình ông Mazen Joulani, người hiến tặng tim, cho biết ông vừa bị những người Do Thái bắn tại một tiệm cà phê ngoài trời.
Gia đình này quyết định hiến tim của Joulani vào thứ sáu tuần qua, ngay trong ngày mà cuộc nổ bom ở Tel Aviv làm thiệt mạng 21 người. Những phần nội tạng khác của Joulani cũng sẽ được ghép cho một số người Itraen khác.
Bác sĩ Lavie, người thực hiện ca mổ, nói khi ông cầm hai trái tim trong tay, ông nhận ra rằng tất cả những mâu thuẫn sắc tộc là hoàn toàn vô nghĩa.
6. Hợp tác
Ngày nay, khi đi trên đường ở nước Thụy sĩ, người ta nhìn thấy một tấm biển lớn, trên đó có trình bày hai chiếc xe hơi: một chiếc màu đỏ, một chiếc màu xanh. Cả hai xe đi cùng chiều với nhau, những người ngồi trong hai chiếc xe ấy đang chào nhau và tươi cười với nhau. Người lái xe xanh đang ra dấu cám ơn lại bằng cách giở mũ chào.
Ở phần dưới tấm biển có ghi một hàng chữ: “Hợp tác là an toàn." Điều này muốn nói lên rằng: giúp đỡ lẫn nhau, đối xử tốt với nhau như người cộng sự bằng tình bằng hữu là một bảo đảm cho một cuộc hành trình không nguy hiểm.
Không ai là một hòn đảo. Cuộc sống của con người chỉ thực sự lớn lên và triển nở khi sống với người khác và sống cho người khác. Xin Chúa ban cho chúng ta biết nhìn ra sự thật nơi mình để luôn biết sống nương tựa nhau và giúp nhau nên hoàn thiện theo ý Cha trên trời là Đấng hoàn thiện.
Hội thánh là một gia đình yêu thương và là nơi hàn gắn những bất hoà chia rẽ. Vì thế, mọi người phải có trách nhiệm liên đới với nhau để tạo sự hiệp thông liên lỉ trong Giáo hội Chúa. Mỗi người chúng ta cần trở thành sợi dây liên kết tình anh em trong cộng đoàn nơi mình sống. Một cộng đoàn trưởng thành là một cộng đoàn có khả năng ngồi lại với nhau để góp ý và giúp nhau sửa lỗi. Chúng ta cần yêu thương để dám góp ý và cần khiêm tốn để được góp ý.
7. Trách nhiệm
Một du khách đang rảo qua khu danh lam thắng cảnh ở Thụy Sĩ, ông dừng lại trước hàng rào của một khu vườn hoa đẹp đẽ bao quanh một lâu đài. Người làm vườn mừng rỡ và đón chào.
Họ nói chuyện với nhau về các loài hoa. Ông du khách hỏi: Cụ ở đây bao lâu rồi? Thưa, được 24 năm. Cụ đã gặp chủ nhân được mấy lần rồi? Tôi đã gặp 4 lần và lần cuối cách đây ba năm. Vậy ông ta có thường liên lạc với cụ không? Thưa không. Vậy ai trả lương cho cụ? Viên quản gia của ông chủ. Người quản gia có năng tới đây không? Tôi chưa hề gặp ông ta, chúng tôi liên lạc bằng thơ từ thôi. Thế thì ai thưởng lãm cảnh đẹp này, mà cụ phải mất công chăm sóc kỹ lưỡng như vậy? Ô, thưa ông, tôi chu toàn trách nhiệm của mình và tôi làm như chủ tôi sẽ đến ngày hôm nay, ngay bây giờ. Ngoài ra chính khi làm đẹp khu vườn của ông chủ, vợ chồng tôi cũng được vui hưởng cảnh đẹp.
8. Hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi.
Đây là một thủ tục tình thương và bác ái dạy làm hết mọi sự để giữ một người anh em đang muốn xa lìa cộng đoàn. Vì thế, việc sửa lỗi anh em là một việc tế nhị, đòi hỏi vừa sự can đảm vừa sự thanh nhã, đồng thời phải có sự khiêm nhường và thông cảm với anh em. Đừng khơi thêm hố chia rẽ, nhưng hãy cầu nguyện để thành công, để đưa người anh em về đường công chính.
Chị Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, chung sống trong tu viện với một chị bạn tên là Marthe. Chị này có một tật xấu là quá quyến luyến Bà Mẹ bề trên. Têrêxa, sau nhiều tháng chờ đợi và cầu nguyện, chị quyết định nói. Trước khi nói, chị đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy đúng sự thật”, Chị đã nói với người bạn “với tất cả tâm hồn và với tất cả kinh nghiệm đã có." Chị Marthe như được giải tỏa tâm hồn và cũng nhìn nhận rằng “Vị chăn chiên đừng nghe theo những lời dua nịnh dối trá, vì không có gì tai hại cho bằng những lời ca tụng đầy nọc độc."
9. Kiên nhẫn gặp phục thiện
Bà Coritanbul, người Ba lan gốc Do thái. Thời đệ nhị thế chiến, bà đã bị giam trong trại tập trung Đức quốc xã. Sau chiến tranh, may mắn bà vẫn còn sống. Bà đi khắp châu Âu kêu gọi lòng tha thứ cho Đức quốc xã, dù trên thân thể bà đầy những tàn tích của Đức quốc xã để lại. Một hôm, một người lính Đức, trước kia đã làm nhục bà, đang đứng trước mặt bà. Nhìn thấy người đã hành khổ mình trước đây, bà như chết lặng; sự câm thù lại bùng lên. Lúc đó, bà thầm thì với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể thực sự tha thứ cho người hành khổ con. Xin ban cho con tâm tình của Chúa, để con có thể tha thứ như Chúa…”
Câu chuyện của bài Tin mừng chúa nhật hôm nay cũng cùng một chủ đề như câu chuyện chúng ta vừa nghe. Ý chính: là sửa dạy anh em; nhưng căn bản của việc sửa dạy chính là sự kiên nhẫn, bác ái và thứ tha nơi người sửa dạy, và tinh thần phục thiện nơi người được sửa…
10. Hai kiểu ăn năn
Trong sách tu hành xưa có kể: Có hai anh thanh niên sống không tốt lắm, họ muốn ăn năn sửa lỗi. Họ đi vào nơi thanh vắng quyết tâm ăn chay đền tội. Sau một năm trời, họ trở về. Một người thì vui vẻ, mặt mày sáng láng; người kia trái lại có vẻ ốm yếu, tâm trạng lại bi quan nữa. Khi được hỏi: người vui vẻ trả lời: cả thời gian qua, tôi nhận ra mình tội lỗi thật; nhưng tôi cũng nhận ra Thiên Chúa yêu thương tôi quá chừng, vậy chính tôi phải sống tốt, phải vui vẻ để đền bù lại tình thương của Chúa…Còn người bi quan đã trả lời: tôi thấy mình tội lỗi vô vàn, đáng bị Chúa phạt. Tôi luôn bị tội lỗi dày vò, không phúc giây nào được yên tâm, khi nghĩ mình không làm sao thoát khỏi án phạt đời đời… Qua câu chuyện này, có người sẽ hỏi: đâu là kiểu ăn năn thật sự? Thưa đó chính là sự phục thiện, tin cậy nơi Chúa của nguời vui vẻ, luôn tin vào Thiên Chúa. Dĩ nhiên người thanh niên kia không phải không có lòng ăn năn, nhưng thực tế ăn năn kiểu đó chưa đủ…
11. Tế nhị khi sửa lỗi
Đức Hồng y Roncalli (sau là Giáo hoàng Gioan 23) ngày kia dự tiếp tân bên cạnh một nữ công tước mặc chiếc váy cực kì ngắn. Ngài tỏ vẻ khó chịu bằng cách suốt bữa tiệc làm như không biết bà. Cuối bữa, ngài đưa cho bà một trái táo. Rất hân hạnh, bà nói:
– Tôi không biết phải cám ơn ngài thế nào. Nhờ đâu tôi được ngài ưu ái như thế? Ngài chăm chăm nhìn bà rồi nói:
– Sau khi Evà ăn quả táo, bà ta mới nhận ra là mình thiếu quần áo.
Người Ái nhĩ lan có một lời nguyện rất hay mà tôi rất thích: God grant me the Serenity to accept the things I cannot change, Courage to change the things I can, and Wisdom to know the difference.
12. Cha giáo thời đệ tử
Nhớ lại thời đệ tử. Một lần đi chợ với cha giáo. Người bán mới nói giá này, bỗng nhiên vài phút sau chị ta tăng giá. Thấy khó chịu nên tôi nói là sao hồi nảy chị nói giá khác sao giờ chị nói khác!? Lát sau về đến nhà dòng, cha phụ trách mới kéo tôi ra riêng và dặn dò cách cư xử của tôi như thế không được. Chị ta nói thế kệ chị ta, mình không nên nói thế vì nói như thế sẽ làm bẽ mặt người ta!
Ngẫm nghĩ thấy cha giáo quá tế nhị để sửa cho tôi những điều nho nhỏ trong cuộc sống mà không để cho ai biết. Sau này cũng thế, sống với ngài một thời gian khá dài của thời đệ tử và tôi đều được ngài
Kéo riêng ra để mà chỉnh sửa mỗi khi cần chứ chưa bao giờ ngài nói đi nói lại cho người khác hay là chỉnh tôi trước mặt người khác.
Trải qua thời gian Đệ Tử tử rồi đến Tập Viện rồi đến Học Viện. Thời Học Viện thì khác, có lỗi gì thì tôi thấy cha giáo không sửa trực tiếp cho mình mà thường ngài sửa theo kiểu trung gian. Nghĩa là mỗi lần phạm lỗi gì, Ngài không gọi tôi vào nhưng ngài mang tôi ra bàn cơm “mổ." Khi Ngài đem ra bàn cơm “mổ” rồi thì hình như cả Học Viện đều biết vì thời đại này công nghệ thông tin quá ư là hiện đại.
Trên đây là 2 cách sửa lỗi của 2 cha giáo. Với tôi thì cách sửa lỗi của cha giáo thời Đệ Tử vẫn là cách sửa lỗi tế nhị nhất, nhẹ nhàng nhất và cũng đỡ làm tổn thương tôi hơn cách của cha giáo thời Học Viện.
13. Trò ném phi tiêu
Tiến sĩ Smith là một diễn giả có nhiều bài giảng tinh tế về tình yêu Chúa.
Một hôm khi Sally bước vào lớp học, cô thấy trên tường có một tấm bìa lớn, gần đó có để nhiều phi tiêu. Tiến sĩ Smith nói với tất cả học sinh hãy vẽ hình của người mình ghét nhất rồi dán lên tấm bìa lớn và ông cho phép họ ném phi tiêu vào hình vẽ đó.
Cô bạn của Sally vẽ hình cô gái đã "cướp" mất người yêu của cô. Một người khác thì vẽ hình đứa em trai của mình. Sally cũng vẽ bức hình của một người bạn cũ, cô dồn công sức để vẽ sao cho thật giống, ngay cả những cái mụn trên mặt cô bạn. Xong xuôi, Sally có vẻ rất hài lòng với tác phẩm của mình...
Cả lớp xếp hàng và bắt đầu ném phi tiêu, mọi người cười nói rôm rả và không khí có vẻ rất vui nhộn. Một số học sinh ném phi tiêu rất mạnh đến nỗi tấm hình của họ bị rách toạc cả ra. Sally chờ tới lượt mình... Và cô đã rất thất vọng khi tiến sĩ Smith đề nghị mọi người dừng lại và trở về chỗ ngồi vì thời gian có hạn.
Trong khi Sally ngồi nghĩ và hậm hực trong lòng vì không có cơ hội để ném phi tiêu vào hình kẻ mình ghét, thì tiến sĩ Smith bắt đầu gỡ tấm bia ra khỏi tường.
Và sau tấm bia đó là bức hình của Chúa Giêsu...
Một sự im lặng bao trùm cả lớp học khi các học sinh trong lớp nhìn thấy bức hình của Chúa Giêsu bị rách nham nhở trên tường; Những cái lỗ và những dấu lởm chởm trên mặt Chúa, và hai mắt Chúa bị đâm thủng.
Tiến sĩ Smith chỉ nhắc lại một câu Lời Chúa: "Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40)
Mỗi vết thương của Chúa Giêsu trên cây thập giá là một lần tôi lên án người khác. Chúa chịu đánh đòn để hàn gắn những vết thương chúng ta đánh nhau, Chúa chịu đội mão gai để hàn gắn sự nhục mạ chúng ta dành cho nhau.
Trên thập giá, Chúa đi tìm anh em của Chúa giữa nhân loại tội lỗi. Chúa mời gọi chúng ta cùng với Chúa đi tìm anh em của chúng ta nơi mọi người: "Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em” (Mt 18,15).
14. Ghét điều ác mà vẫn thương người ác
Quý Cao làm quan sĩ sư nước Vệ, có làm án chặt chân một người. Sau nước Vệ loạn, Quý Cao chạy trốn, ra đến cửa thành gặp người giữ cửa thành, lại chính là người mình đã lên án chặt chân ngày trước. Thế nhưng người giữ thành ba lần chỉ chỗ cho Quý Cao trú ẩn, thoát nguy lúc loạn lạc.
Lúc sắp đi, Quý Cao bảo người giữ thành rằng: “Trước ta theo phép nước mà chặt chân ngươi. Nay ta gặp nạn, chính là cái dịp để ngươi báo thù, mà ngươi ba lần chỉ lối cho ta trốn. Thương ta như thế, là cớ làm sao?”
Người giữ thành nói: “Tội tôi đáng chặt chân, thì tránh sao cho khỏi. Lúc ông luận tội, xoay xở pháp luật, ý muốn nới tay, tôi cũng biết. Lúc án đã định, đưa ra hành hình, nét mặt của ông buồn sầu, tôi lại biết lắm. Ông làm như thế, há có vị riêng gì tôi đó. Đó là tâm địa bậc quân tử tự nhiên như thế. Nên tôi muốn cứu ông.”
Quý Cao có tâm địa tốt lành của bậc quân tử, ghét điều ác mà vẫn thương kẻ ác.
15. Trọng chữ tình nghĩa
Sách “Cổ học tinh hoa” kể chuyện Ngưu Hoằng, Ngưu Bật, là hai anh em ở chung với nhau. Ngưu Bật có tính thích nhậu, thường hay nát rượu.
Một hôm, lúc anh đi vắng, Ngưu Bật ở nhà uống rượu say túy lúy, bắn chết con trâu của anh. Người vợ ở nhà đón đợi chồng về, vừa thấy chồng bước vào cửa thì xăm xăm bảo chồng rằng:
- Này! Chú nó ở nhà bắn chết trâu rồi!
- Trâu chết thì bảo đem đi làm thịt, Hoằng bình tĩnh nói.
Nói rồi Hoằng vào nhà, vừa yên chỗ thì vợ đã đến giục giã:
- Chú nó bắn chết trâu là việc to lắm, có phải việc thường đâu…
Hoằng vẫn giữ nét mặt hoà nhã trả lời:
- Phải, tôi biết rồi mà.
Rồi mở sách vở ra xem, như không có chuyện gì cả. Thấy thế, người vợ nguôi giận, không dám nói gì nữa.
Trâu chết là việc lớn, nhưng còn một việc lớn hơn là cái tình, cái nghĩa! Nếu đưa đi kiện cáo, trâu chết vẫn chết mà lại mất thêm người em; chỉ nhờ nhịn chịu tật xấu của em mà Ngưu Hoằng giữ được cái tâm bình an và được người đời sau kính phục.
16. Lòng thanh trí sáng
Có một người đến gặp thánh Gioan M. Vianney và nói: “Thưa Cha, con muốn thảo luận với Cha vì con có nhiều nghi vấn về đạo.” Ngài trả lời: “Trước hết ông hãy xưng tội và rồi chúng ta sẽ thảo luận.”
Đã lâu năm không xưng tội nên ông hơi ngỡ ngàng, nhưng vì thánh nhân nhấn mạnh, lại khuyên bảo và nâng đỡ tâm hồn nên cuối cùng ông đã đồng ý xưng tội, cách sốt sắng. Sau khi ban phép giải tội, ngài mới nói: “Nào bây giờ chúng ta cùng thảo luận. Có phải ông hồ nghi về sự hiện hữu của Chúa, về tình thương của Ngài?” Người đàn ông đáp: “Thưa Cha, bây giờ con không cần thảo luận nữa, vì mọi nghi ngờ của con về đạo không còn khi con xưng tội xong.”
Còn gì để nghi vấn nữa khi đã gặp được tình yêu của Đức Kitô, và biết luật để sống hạnh phúc? Thế nên “anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn lề luật” (Rm 13,8).
17. Tình liên đới
Một người Ả rập kia có con ngựa rất đẹp. Người láng giềng tìm đủ mọi cách để mua con ngựa, nhưng chủ nhân vẫn một mực từ chối. Người láng giềng liền nghĩ ra một mưu kế để chiếm đoạt con ngựa.
Biết người chủ ngựa thường hay đi qua sa mạc, người láng giềng cải trang thành một người hành khất nằm rét run bên vệ đường. Chủ ngựa là người tốt bụng, thấy người hành khất liền cảm thương, đề nghị đưa ông ta lên ngựa đem về quán trọ săn sóc.
Con người tốt bụng kia xuống ngựa, đưa người hành khất lên ngựa. Nhưng khi vừa lên lưng ngựa, người hành khất hiện nguyên hình tên bất lương. Hắn giật giây cương, thúc ngựa phi nước đại.
Người chủ ngựa đáng thương chỉ còn biết đuổi theo nói với tên bất lương: “Ngươi đã ăn cắp con ngựa của ta. Ta sẵn sàng bỏ qua. Nhưng ta chỉ xin ngươi một điều: là đừng bao giờ kể cho ai nghe mưu mẹo này của ngươi. Kẻo một ngày nào đó, có người hoạn nạn thật sự bên vệ đường, sẽ không có ai dám dừng lại để cứu giúp người ấy nữa!”
18. Sức mạnh của lời nguyện
Trong vụ khủng bố kinh hoàng tại nước Mỹ vào ngày 11/9/2001, ngoài hai chiếc phi cơ đâm vào tòa tháp đôi tại New York, còn một chuyến bay khác mang tên United Flight 93 đã đâm xuống một vùng quê thuộc tiểu bang Pennsylvania.
Mọi người thắc mắc: tại sao bọn khủng bố không dùng chiếc phi cơ này đâm vào Tòa Bạch Ốc (The White House) là cơ quan đầu não của chính phủ Hoa Kỳ?
Phải đợi đến tháng 12 năm 2001, người ta mới tiết lộ mọi chi tiết từ đoạn băng thu âm trong phòng lái chiếc phi cơ.
Chiếc máy bay bị bọn không tặc khống chế. Chúng dồn hành khách xuống cuối máy bay và dự tính cho đâm vào Tòa Bạch Ốc.
Nhưng các hành khách dưới sự hướng dẫn của một người đàn ông tên Todd Beamer, đã chống lại bọn khủng bố, ép cho chiếc máy bay đâm xuống đất, thay vì đâm vào Tòa Bạch Ốc.
Có điều đặc biệt là Todd Beamer đã xin mọi người cùng cầu nguyện với anh bằng kinh Lạy Cha trước khi xông vào chiến đấu với bọn khủng bố. Chính sức mạnh của lời cầu nguyện đã làm tăng thêm niềm tin nơi họ, để họ chiến thắng bọn khủng bố.
“Nếu hai người trong các con ở dưới đất mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho các con điều đó.”?
Chúng ta hãy xin Chúa biến cộng đoàn chúng ta thành cộng đoàn của niềm tin, khi mọi người chúng ta luôn biết họp nhau mỗi ngày dâng lời cầu nguyện và siêng năng tham dự thánh lễ thật sốt sắng.
19. Lời khuyên có sức mạnh
Ngày kia khi Đức Giám Mục Amolas đến thăm mục vụ một làng nọ, dân chúng đã bày tỏ với Ngài lòng bất mãn tột độ của họ đối với một vị ẩn tu trên núi, vì ông ta đem theo một phụ nữ để chung sống.
Từ dạo ấy, vị ẩn tu không ngớt là đối tượng để dân làng đàm tiếu, chỉ trích và lên án. Thấy Giám Mục Amôlas đến, họ xúm lại vây quanh Ngài và nói: hôm nay Ngài đã đến đây thì Ngài phải chấm dứt ngay lập tức tình trạng sa đọa bê bối gây nhiều gương mù gương xấu của vị ẩn tu trên núi kia.
Sau khi nghe những lời kết án gây gắt của dân làng, Giám Mục Amôlas quyết định leo lên núi. Ngài đi đầu, dân làng lũ lượt nối gót theo sau. Vị ẩn tu thấy đám đông kéo đến túp lều của mình, ông ta hoảng sợ và cấp tốc bảo người phụ nữ chui vào trốn trong một cái thùng gỗ rỗng.
Đức Giám Mục là người đầu tiên đến trước túp lều, và cũng là người đầu tiên bước chân vào. Ngài đưa mắt nhìn chung quanh và hiểu ngay tình tình. Ung dung, Ngài đi thẳng đến chỗ ngồi ngay trên chiếc thùng gỗ để nghỉ chân, nơi người phụ nữ ẩn trốn. Rồi bình thản khoát tay gọi dân làng vào và bảo:
- Vào đây, các người hãy vào mà lục xét túp lều để tìm người phụ nữ.
Không tìm thấy người phụ nữ, mọi người đã lục tục kéo nhau xuống núi, Đức Giám Mục Amôlas tiến gần vị ẩn tu, nắm chặt hai bàn tay của ông, đưa mắt nhân từ nhưng cương nghị nhìn sâu vào đôi mắt của ông và chậm rãi nói:
- Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn đấy!
Người tu sĩ đã phạm lỗi biết rất rõ Đức Giám Mục vừa cứu anh khỏi bẽ mặt với đám đông đang phẫn nộ và muốn vạch trần sự thật từng được che dấu. Nghe đâu sau này vị tu sĩ trẻ ấy đã toàn tâm toàn ý tu tâm sửa tính, và trở thành bậc thầy đạo hạnh nổi tiếng khắp vùng.
20. Cái thùng bị thủng
Một người kia có hai chiếc thùng lớn để gánh nước. Một trong hai chiếc thùng ấy bị thủng. Vì thế, khi gánh từ giếng về, nước trong thùng chỉ còn một nửa. Chiếc thùng còn nguyên rất tự hào về sự hoàn hảo của mình, còn chiếc thùng bị thủng cứ luôn áy náy vì đã không chu toàn nhiệm vụ.
Một ngày kia, chiếc thùng bị thủng mới thưa với ông chủ:
- Tôi thật sự xấu hổ về mình, tôi muốn xin lỗi ông!
Ông chủ ngạc nhiên hỏi lại:
- Nhưng ngươi xấu hổ về chuyện gì?
Chiếc thùng buồn bã trả lời:
- Chỉ vì cái lỗ thủng trên thân tôi mà ông không nhận được đầy đủ những gì xứng đáng với công sức của ông!
Đến đây thì ông chủ ôn tồn bảo:
- Không đâu, ngươi cứ yên tâm. Mỗi khi đi từ giếng về nhà, ngươi hãy chú ý nhìn xem những luống hoa bên vệ đường. Quả thật, dọc theo bên đường là những luống hoa thật rực rỡ.
Chiếc thùng bị thủng cảm thấy vui vẻ hơn được một lúc, nhưng rồi về đến nhà, nó vẫn chỉ còn được một nửa thùng nước. Chiếc thùng lại thấy ân hận:
- Tôi xin lỗi ông!
Ông chủ lại hỏi:
- Ơ hay, thế ngươi không nhận ra rằng hoa chỉ mọc ở bên này đường, phía của ngươi thôi sao? Ta đã biết được cái lỗ thủng của ngươi và ta đã tận dụng nó. Ta đã gieo những hạt giống hoa bên vệ đường phía bên ngươi, và trong những năm qua, chính ngươi không ngờ mình đã tưới cho chúng được tốt tươi. Ta đã hái những đóa hoa để trang hoàng cho căn nhà. Nếu không có ngươi, căn nhà của ta đâu có được tươi mát và duyên dáng như thế này!
Ông chủ đã sửa chữa khuyết điểm của chiếc thùng bị thủng rất là tế nhị và tài tình. Thay vì đem hàn lại lỗ thủng hoặc bỏ hẳn chiếc thùng đi, ông lại sử dụng nó vào hai nhiệm vụ, vừa gánh nước vừa tưới hoa. Điều này đã khiến nó không còn áy náy, mà trái lại, càng thêm hãnh diện vì đã đem lại lợi ích cho chủ nó.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng dạy chúng ta hãy khéo léo sửa lỗi cho nhau như thế: “Nếu người anh em của ngươi trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó." Như vậy, đây là một bổn phận, một trách nhiệm trong cộng đoàn. Bổn phận này rất khó làm vì nó gây khó chịu cho người lỗi phạm.
21. Món quà lòng tốt
Nạn đói xảy ra trong vùng. Một người ăn xin bên góc đường bước đến bên đại văn hào Nga, Tolstoy, đang đi ngang qua đó. Tolstoy dừng lại, lấy tiền cho nhưng không tìm được đồng nào. Ông nói với sự nuối tiếc : " Này người anh em, đừng giận tôi. Tôi chẳng đem theo gì."
Mặt người ăn xin sáng lên và nói : "Ông gọi tôi là anh em, đó đã là món quà rất lớn rồi !"
22. Philipphe sửa lỗi nói hành
Thánh Philipphê Nêri một ngày kia muốn sửa lỗi cho một người phụ nữ có cái tật hay nói hành nói xấu người khác. Ngài bảo chị ta mua một con gà rồi làm cho nó chết đi....sau đó hãy đem con gà đó đến gặp Ngài với điều kiện là phải vặt hết lông con gà trên đường đi đến gặp ngài. Người phụ nữ hơi thắc mắc nhưng vì lòng mến đối với thánh nhân nên cũng vui lòng làm như ngài đòi hỏi. Khi tới nơi, ngài không khuyên lơn gì cả mà lại ra lệnh cho bà đó trở về.... vừa đi vừa lượm lại cho ngài hết số lông con gà mà bà đã vứt ở giữa đường.
Chúng ta thừa biết phản ứng của người phụ nữ đó như thế nào.
Sau đó ngài cắt nghĩa: "Những lời nói vu oan cáo vạ cho người khác khi ra khỏi miệng cũng sẽ nhanh chóng loan truyền từ tai người này sang tai người khác như vậy, khó mà con thể thu lượm lại được...chẳng khác gì phải thu lượm lại những cái lông gà....của con vậy.." Rồi ngài thêm "Còn khi muốn nói về một người nào làm khổ mình thì chỉ nên nói với Chúa mà thôi....hãy cầu nguyện cho họ để họ biết sửa lỗi."
23. Sức mạnh của lời cầu nguyện
Chúng ta hãy nghe những lời sau đây của Thánh Augustinô: "Nhờ ơn của mẹ tôi, nhờ lời cầu nguyện và công phúc của người mà tôi đã thành người như hiện nay. Lạy Chúa nếu con được làm con Chúa, chính vì Chúa đã ban cho con một người mẹ, một trong những tôi tá của Chúa.”
Thánh Têrêsa bằng lời cầu nguyện của mình đã làm cho một tử tội tưởng chừng như không thể khuất phục ăn năn và chịu các Bí tích cuối cùng trước khi lên đoạn đầu đài.
Ngày kia, thánh Etienne, đang giảng thuyết trước một cử tọa đông đảo, bỗng có một người dám nói với ngài:
- Thưa cha, mặc dù cha nói nhiều đến sự khinh tởm tội lỗi, con cũng chả muốn hoán cải tí nào và con rất bực bội khi nghe tin cha cầu nguyện cho con.
Ngạc nhiên trước những lời nói bạo gan này, vị thánh xúc động đến nỗi ngài phải khóc ròng. Và ngay sau đó, ngài đánh chuông tập họp tất cả các tu sĩ lại, bảo:
- Chúng ta hãy mau cầu nguyện cho con người đáng thương này!
Vài giờ sau đó, trái tim của kẻ tội lỗi cứng đầu này hoàn toàn thay đổi; anh ta nhận ra tình trạng thảm hại của mình và quyết định sống một cuộc đời đối mới. Anh đến tìm gặp vị thánh, phủ phục dưới chân ngài xin tha thứ, và hứa sẽ từ bỏ các tật xấu, không bao giờ tái phạm nữa.
24. Không nhận lỗi
Dale Carnegie nổi tiếng về những sách học làm người, đã viết :”Tôi đã phải phấn đấu gần một phần ba thế kỷ mới thấy được ánh sáng chân lý này : dù người ta có lỗi nặng đến đâu, thì trong 100 lần tới 99 lần người ta tự cho mình là vô tội."
Bà đã kể trường hợp về ba tên đầu đảng bọn cướp nổi tiếng nhất nước Mỹ : Crowley, Capone và Schultz.
Crowley giết người như ngóe mà vẫn nói :”Dưới lớp áo này, trái tim ta đập chán ngán, nhưng thương người không muốn làm hại ai."
Capone đã tự tuyên bố :”Ta dùng những năm tươi đẹp nhất trong đời để mua vui cho thiên hạ. Vậy mà phần thưởng chỉ là bị chửi, bị săn bắt như thú dữ."
Schultz đã tự mãn khoe mình với ký giả :”Ta là ân nhân của thiên hạ”
25. Án Tử căn ngăn vua.
Vua Cảnh Công nuớc Tề, có một con ngựa qúi, giao cho một người chăn nuôi. Con ngựa tự nhiên một hôm lăn ra chết. Vua giận lắm, cho là giết ngựa, sai quân cầm dao để phanh thây người nuôi ngựa. Án Tử ngồi chầu, thấy thế ngăn lại, hỏi nhà vua :
- Vua Nghiêu, vua Thuấn xưa phanh người thì bắt đầu từ đâu trước ?
Cảnh Công ngơ ngác nhìn nói :
- Thôi hãy buông ra, đem giam xuống ngục để rồi trị tội.
Án Tử nói rằng :
- Tên phạm này chưa biết rõ tội mà phải chịu chết, thì vẫn tưởng là oan. Tôi xin vì vua kể rõ tội nó, rồi hãy bỏ ngục.
Vua nói :
- Phải.
Án Tử kể tội rằng :”Nhà ngươi có ba tội đáng chết. Vua sai nuôi ngựa mà để ngựa chết là tội đáng chết. Lại để chết con ngựa rất qúi của vua, là hai tội đáng chết. Để vua mang tiếng, vì một con ngựa mà giết chết một mạng người, làm cho trăm họ nghe thấy ai cũng oán vua, các nước nghe thấy ai cũng khinh vua, ngươi làm chết một con ngựa mà để đến nỗi dân gian đem lòng oán giận, nước ngoài có bụng dòm dỏ (ngấp nghé xem nguời ta hở cơ là làm hại), là ba tội đáng chết, ngươi đã biết chưa ? Bây giờ hãy tạm giam ngươi vào ngục...."
Cảnh Công nghe nói ngậm ngùi than rằng :
- Thôi, tha cho nó ! Kẻo để ta mang tiếng bất nhân.
CNTN 23B -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
CNTN 23C -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1. LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ – PHẢI ĐƯỢC GIƯƠNG CAO
Lời Chúa: Ga 3, 13-17
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng Nicôđêmô rằng: “Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời. Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời.
“Quả thật, Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người, để tất cả những ai tin vào Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ."
TRUYỆN KỂ
1. Cuốn sách hay nhất
Một nhà thông thái nằm mơ thấy mình để cả cuộc đời đi tìm một cuốn sách hay nhất gồm tóm mọi sự trên đời, cuốn sách đó chỉ tóm gọn trong một trang hay nhất, rồi trang ấy gồm trong một dòng hay nhất, rồi dòng ấy trong một chữ hay nhất. Ông giật mình tỉnh dậy, trên bàn ông có một chữ to tướng: Crux, Thánh Giá.
Thánh Giá là tình thương vô biên của Thiên Chúa qua Chúa Kitô, đã tỏ cho loài người bằng cách hứng chịu mọi đau khổ trên thập giá để cứu độ chúng ta, và ngược lại, Chúa muốn chúng ta cũng qua Thánh Giá đóng góp phần mình vào ơn cứu độ để cứu mình và anh em, để tất cả được sống lại vinh quang với Chúa. Chỉ một vài dòng đơn sơ, nhưng nói đến Thánh Giá là động chạm đến bao vấn đề hết sức quan trọng và sâu sắc.
2. Trao tặng người con duy nhất
Một nhà mục sư Tin Lành giảng về câu Kinh Thánh của Thánh Gioan trên rất hay: hai gia đình, một Công giáo, một Tin lành đi lại với nhau rất thân, gia đình Công giáo có năm người con, ông bà Tin lành đã già mà không có con. Họ quý mến nhau lắm và mọi sự thông cảm chia sẻ với nhau rất quảng đại. Một hôm ông bà Tin lành mạnh dạn nói với ông bà Công giáo: Cả hai ta cùng thờ một Thiên Chúa, một Chúa Kitô, tuy là hai Hội Thánh nhưng chúng ta vẫn quý mến nhau vì cũng gặp ở một Chúa. Chúa cho gia đình bác nhiều cô cậu, còn tôi trong cảnh già nua buồn bã, tôi muốn xin bác cho chúng tôi một cô hoặc một cậu để ông bà làm vui. Tôi hứa sẽ yêu thương giáo dục cháu hết sức! Ông bà Công giáo cảm động quá về bàn với nhau xem nên cho đứa nào.
- Con cả là một cậu trai tuấn tú, thông minh, ngoan ngoãn, nhất định không được. Vả ai lại cho trưởng nam đi.
- Con thứ là một cô gái xinh đẹp đạo đức lại vừa đính hôn với một thanh niên xứ bạn, ai lại cho đi đứa con chỉ vài ba tháng nữa sẽ về nhà chồng.
- Con thứ ba là cậu trai tàn tật, què chân. Hai vợ chồng buồn bã cho số phận hẩm hiu của con nên càng đem lòng ưu ái con để bù thiệt cho nó, thì sao có thể cho nó đi và lại cho bạn một đứa con tàn tật, làm sao coi được.
- Con thứ tư là một cô thiếu nữ 10 tuổi. Vừa nói tới bà đã khóc tru trếu vì bà coi cô như hòn ngọc. Bà coi cô là hình ảnh sống động của mình vì lời ăn tiếng nói, nụ cười, cả dáng đi đều giống hệt như bà.
- Con thứ năm là cậu trai út, 4 tuổi, suốt ngày nói nói cười cười, khi ngồi trên gối mẹ, lúc lại nằm trên tay cha. Đi nhà thờ, đi dạo chơi luôn kèm theo mẹ cha sao có thể rời được. Rút cuộc đành phải báo lại cho ông bạn Tin lành là không thể cho ông bạn được đứa nào cả
Nhà mục sư cao giọng: Con người thân thiết nhau đến thế mà người có năm con không thể cho ông bạn một đứa. Thế mà Thiên Chúa và nhân loại có thân thiết nhau được như thế không? Tội lỗi đã làm con người nên tử thần với Chúa, Chúa Cha lại chỉ có một người con vô cùng quý hóa, ấy mà Ngài lại cho con mình xuống trần gian tội lỗi chịu trăm ngàn đau khổ mà cao điểm là Thánh Giá để loài người được an vui.
3. Tôi có yêu thánh giá không?
Tự hào là những người yêu Thánh Giá hơn ai, mến Chúa hơn ai mà con lại không biến cải những Thánh Giá chúng con thành những cây Thánh Giá để nên giống Chúa, để biểu lộ tình yêu Chúa yêu tha nhân?
Thánh Têrêxa Avila thì nói: “Hoặc đau khổ hoặc chết." Thánh Mađalêna de Passi: “Không chết nhưng xin đau khổ mãi mãi." Thánh Rosa Lima: “Lấy vòng gai có mũi nhọn đội lên đầu, vác cây khổ giá nặng lâu giờ trong một ngày, ban đêm tự treo hai tay lên khổ giá để kết hợp với Chúa hấp hối trên thánh giá xưa.
Thế mà con, tu sỹ Thánh Giá thì lại khiếp sợ Thánh Giá, chê chối tránh né Thánh Giá. Thật dân này chỉ mến ta bằng môi bằng miệng.
Nhà văn Montalenebat viết trong cuốn “Các đan sỹ Phương Tây” miêu tả lời than của cây gỗ Thánh Giá rất cảm động như sau: Từ năm xửa năm xưa, lâu lắm rồi, tôi không còn nhớ nữa, lúc đó tôi mọc ở khu rừng, họ đã hạ tôi xuống đất, cưa chặt và mang tôi đi. Những kẻ thù thô lỗ đã chiếm lấy tôi để thành một trò hề. Họ đem tôi lên một ngọn núi và chôn tôi xuống đất. Ở đó tôi thấy Chúa tể loài người trong uy quyền đi tới trèo lên tôi. Để khỏi bất tuân với người tôi không dám gẫy cũng không dám cong, tôi cảm thấy đất run rẩy dưới chân tôi. Tôi cũng run khi thấy vị anh hùng ôm lên lấy tôi, nhưng tôi không dám cúi mình xuống, cũng không dám lún sâu xuống đất. Dù sao tôi cũng phải đứng thẳng và vươn lên để dương cao trên dân chúng Đấng là vua cao cả, là Chúa trời đất. Họ xuyên thủng tôi bằng những cái đinh màu xám, những vết thương còn biểu hiện trên mình tôi ngày nay. Cả Ngài lẫn tôi đều bị chửi rủa. Máu từ cạnh sườn Ngài loang đổ trên mình tôi. Mặt trời tối sẫm, cả vũ trụ than khóc vua họ bị ngã xuống. Trong cuộc thương khó trên Núi Sọ, cây gỗ giá đã đồng hóa mình với Chúa Giêsu, đã góp phần vào ơn cứu chuộc –
Cây gỗ giá đã tuyên bố không dám gãy không dám cong mà cứ đứng thẳng và vươn lên. Còn ta, những người tự hào mình là kẻ hợp tác với ơn cứu độ, chuyền thông ơn cứu độ lại không dám đồng hóa với Chúa Kitô, không dám vươn lên, không dám vươn cao cho thế giới biết Đấng chịu đóng đinh là Chúa Trời Đất yêu thương ta vô cùng sao?
Lạy Chúa, xin cho con can đảm như Cha Charle de Foucauld: Khi tôi ôm lấy Thánh Giá thì một trật tôi ôm lấy Chúa Kitô chịu đóng đinh vào đó.
4. Treo cao trên thập tự
Trong truyền thuyết Hy Lạp cổ xưa, thần chữa bệnh có tên là Asklepios được biểu trưng bằng con rắn, chính vì lý do này, ngày nay hình con rắn được dùng để làm biểu tượng cho ngành Dược và ngành Y là những ngành khoa học nghiên cứu và chữa trị con người thoát khỏi bệnh tật.
Hơn nữa, con rắn đồng được giương cao trong Kinh Thánh mang ý nghĩa: Thiên Chúa cứu độ con người.
Ý nghĩa cứu độ được bắt đầu bằng những biến cố của dân Chúa khi thoát khỏi Ai Cập, thoát khỏi ách nô lệ đi vào đời tự do. Chính trong sự tự do suốt bốn mươi năm ròng rã nơi hoang địa, họ gặp nhiều thử thách tranh đấu. Bị thử thách, họ đã oán trách Thiên Chúa, vì thế cơn thịnh nộ của Chúa đã để cho rắn độc trong sa mạc cắn chết nhiều người. Dân Chúa biết tội và nhìn nhận tội lỗi của mình. Chúa đã đoái thương nỗi thống khổ của họ. Người truyền cho Môisê làm một con rắn bằng đồng, treo lên cây, để bất cứ ai bị rắn cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu (x. Ds 21,4-9).
5. Ba thập giá
Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ thứ 17 đó là bức tranh “Ba thập giá.” Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu trổi lên một cách ngạo nghễ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét. Tác giả như muốn nói rằng không trừ một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt gần như mất hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ để cho các nhà chuyên môn chẩn đoán rằng đó chính là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt. Tại sao giữa đám đông của những kẻ đang đằng đằng sát khí khi tham dự vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembrandt lại chen vào khuôn mặt của mình? Câu trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về sự hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính ông. Rembrandt muốn thú nhận rằng chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói với mỗi người chiêm ngắm bức tranh rằng, họ cũng dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
6. Tuân phục thánh ý Chúa.
Khi nói đến ông Leonardo da Vinci, chúng ta thường nghĩ ngay đến những phát minh khoa học và những bức họa nổi tiếng của ông. Chúng ta không biết rằng để giải trí, ông Leonardo da Vinci còn sưu tầm những chuyện cổ tích hoặc ñaët ra những câu chuyện vui như câu chuyện sau đây về một cuộc đối thoại tưởng tượng giữa tờ giấy trắng và cây viết:
Tờ giấy trắng từ lâu nằm ù lỳ trên bàn giấy cùng với những đồng bạn khác, nhưng bỗng nó được chọn đem ra nằm giữa bàn và chịu cảnh cây viết mực đen ngòm vẽ lên nó không biết bao nhiêu là dấu hiệu mà nó không hiểu gì cả. Nó phàn nàn với cây viết như sau:
- Tại sao anh lại làm thế? Anh vẽ trên mình tôi những dấu đen làm mất đi sự trong trắng ban đầu. Anh làm nhục tôi thế này sao? Anh làm hư cả cuộc đời tôi rồi.
Nhưng cây viết trả lời:
- Không đâu anh giấy ạ, anh hiểu lầm tôi rồi. Tôi không bôi đen anh đâu, tôi vẽ lên anh những dấu hiệu, nhöõng dòng chữ kể từ nay anh không còn là một tờ giấy vô dụng nữa, nhưng có mang trên mình những sứ điệp. Anh trở thành kẻ cộng tác với con người, lưu giữ những tư tưởng cao siêu. Và vì thế được con người nâng niu, bảo vệ. Anh sẽ được sống mãi để trợ giúp cho con người.
Tờ giấy chưa kịp trả lời cây viết thì nó bỗng nhìn thấy một bàn tay người quơ lấy những tờ giấy khác, trước kia trắng tinh nhưng nay đã đổi mầu, đầy bụi mà quăng và ngọn lửa bên cạnh. Tờ giấy bị vẽ trên mình những lằn mực đen kia mới hiểu được hành động của cây viết và lấy làm sung sướng, vì được trở thành như người cộng tác lưu giữ trong kho tàng trí khôn con người.
Cuộc đời chúng ta có thể được so sánh như tờ giấy trắng. Nếu không chấp nhận để cho bàn tay của Thiên Chúa viết vào đó những dòng chữ, những chương trình hành động thì ta sẽ không được hạnh phúc trở thành người cộng tác với Thiên Chúa, trở thành những kẻ lưu truyền sự khôn ngoan của Ngài từ thế hệ này sang thế hệ khác. Lúc đầu, tờ giấy đã không hiểu được hành động của cây viết vẽ lên những dấu lạ trên mình nó. Con người chúng ta chắc cũng sẽ gặp trường hợp tương tự.
7. Lấy thứ kim cương nào?
Một vua kia muốn thử các con, xem ai khôn ngoan hơn, đặng nối ngôi sau khi mình băng hà, bèn lấy thứ kim cương thật quí gói vào một gói bằng giấy rất xoàng, khó coi lắm. Còn một thứ kim cương giả bằng thủy tinh thì để vào trong hộp rất lịch sự có vẻ rực rỡ ưa nhìn. Đoạn, vua gọi người con cả đến, bảo tùy ý muốn chọn thứ kim cương nào thì chọn. Thấy gói xoàng, con đó bỏ qua, song chọn cái đẹp, té ra là thứ kim cương giả. Sau vua gọi đến con út, hỏi muốn chọn lấy kim cương nào. Con đó nhìn cha bằng một cặp mắt dịu hiền, rồi nói:
- Thưa cha, xin cha lựa chọn dùm con.
Vậy, vua cha chọn thứ kim cương thật trong gói xoàng, và bảo con đó hãy đợi để mình sửa soạn cách trọn vẹn hơn nữa. Vua truyền thợ làm cái mũ triều thiên, trên đính thứ kim cương thật đó, coi rất đẹp đẽ, đoạn, để vào trong hộp bằng vàng đẹp hơn cái hộp đựng kim cương giả trước ngàn lần. Cuối cùng vua họp các thần dân lại tuyên bố rằng: Mai sau con út mình sẽ được nối ngôi làm vua.
8. Ông lão mất ngựa.
Một ông lão có con ngựa hay, một hôm tự nhiên đi mất. Hàng xóm đến chia buồn. Ông nói:
- Mất ngựa, nhưng sao các ông biết đó là họa cho tôi?
Cách mấy tháng sau, con ngựa trở về, dẫn theo một bầy ngựa hay khác. Hàng xóm cũng đến chia mừng. Ông nói:
- Được nhiều ngựa hay, nhưng sao các ông biết đó là phúc cho tôi?
Từ ngày có ngựa hay, con trai của ông lão ngày nào cũng thích cưỡi, rủi té què chân. Hàng xóm đến chia buồn. Ông nói:
- Con tôi què, nhưng sao các ông biết đó là họa cho tôi?
Năm sau có giặc. Nhà vua bắt lính. Thanh niên đi lính, mười người chết chín. Con trai ông lão vì què khỏi đi lính, nên cha con còn hủ hỉ với nhau.
Một khi đã biết sống tin vào Chúa quan phòng, chúng ta sẽ dễ dàng sống lạc quan vui vẻ như em bé trong tay mẹ mình, sống một đời thảnh thơi không lo lắng gì (x. Tv 131). Chúng ta phải có cái nhìn lạc quan vào sự đời, biết tìm ra cái hay, cái tốt để làm cho đời sống thêm sung sướng.
9. Gương của cha Pereyve
Cha Pereyve tưởng mình sẽ chết non, trong dịp cấm phòng chịu các chức nhỏ, ngài viết: bệnh của tôi không biết sẽ kéo dài bao lâu nữa, có khi đến mùa thu sắp tới hay sẽ dai dẳng cho đến mùa xuân sang năm, nếu được như vậy, càng hay, cứ thường tình mà nói, tôi có lẽ mà buồn.
Lạy Chúa, Chúa biết con muốn làm Linh mục, muốn giảng giải, giải tội, viết sách, nhưng thánh ý Chúa muốn cho con làm việc khác: việc chết non, việc vui lòng đón nhận cái chết. Lạy Chúa, con đã suy nghĩ, đã học hỏi kỹ điều Chúa dạy, và con xin giơ tay đón nhận. Lạy Chúa Giêsu, con xin ký nhận vào giấy đòi chết, và vui lòng đi. Con rước lấy sự chết với tất cả những gì tùy theo: ly biệt, đau lâu ốm dài, chiến đấu gay go, chết lúc nào đang ham sống bồng bột – hai mươi ba cái xuân – chết mà không dám phàn nàn vì chưa thực hành được những điều mơ ước, dầu khởi sự cũng chưa.
10. Thánh giá trong đời thường
Chúng ta hãy xem gương thánh nữ Têrêsa Hài Đồng đã sống thế nào trước những gian lao thử thách trong đời sống thường ngày. Thực ra, những sự hy sinh của thánh nữ chẳng lớn lao gì, nhưng thánh nữ đã biết lợi dụng khai thác triệt để với lòng yêu mến, do đó, các hy sinh ấy có giá trị to lớn. Ta hãy nghe thánh nữ kể:
“Hai chúng con giùng giằng lèo xèo làm cho mẹ Bề trên (đang liệt bệnh) mở mắt thức dậy, thế là mọi lỗi đổ cả lên đầu con. Chị kia liến thoáng nói một thôi dài, mà đại ý chỉ có thế này: chính là tại Têrêsa Hài đồng đã làm om sòm. Nóng mặt, con muốn cãi lại ngay… Nhưng con bảo mình: nếu mà cãi phải cho mình bây giờ, chắc sẽ mất sự bằng an trong lòng. Đàng khác, vì còn kém nhân đức lắm, nên con đã không thể đứng yên để nghe chị ấy đổ tội cho mà không thưa lại vài lời cho ra nhẽ, con liền tính kế “đào vi thượng sách."
Nghĩ xong, con lủi đi như con quốc… nhưng vì trái tim quá hồi hộp thổn thức không thể bước đi xa được, chân như rủn ra, con phải cưỡng bách ngồi xệp xuống chân thang để được bình tĩnh hưởng cái thú không chiến mà thắng” (Trích Một tâm hồn, tr 40-41)
Những hy sinh nhỏ mọn hằng ngày, tuy nhỏ mọn tầm thường, nhưng rất có lợi cho ta nếu ta biết lợi dụng nó. Trong đời sống hằng ngày, không thiếu gì những dịp để chúng ta có thể làm những hy sinh dâng cho Chúa. Những xích mích va chạm trong đời sống hằng ngày thiếu gì, nhưng mấy khi chúng ta biết chịu đựng như Têrêsa Hài đồng!
11. Con hổ và lũ khỉ.
Người ta kể chuyện ngụ ngôn như sau: trong một khu rừng có một con hổ lớn và dữ tợn, lũ khỉ ghét con hổ này lắm. Một ngày kia, chẳng may, con hổ bị sa xuống hố do người thợ săn đào sẵn. Không còn cách nào thoát thân, con hổ chỉ còn biết ngồi chờ thần chết đến…
Lũ khỉ đi qua thấy thế mừng lắm, chúng chế diễu và thay nhau ném đá, lấy đất và bẻ các cành cây ném xuống con hổ cho bõ ghét. Con hổ chỉ còn biết ngồi chịu trận, không còn biết làm cách nào khác. Thấy thế, lũ khỉ thích chí càng ném hăng, ném mãi không chán, nhưng không ngờ, chính những hòn đá, cành cây ném xuống nhiều quá, làm cho hố cứ đầy dần lên, đến nỗi con hổ có thể nhờ đó mà nhảy ra khỏi hố được.
Đời là thế. Đau khổ cũng có ý nghĩa riêng của nó. Người ta nói: “Cái khó nó bó cái khôn." Nếu ta biết lợi dụng đau khổ thì nó sẽ trở nên có lợi cho ta: cũng như một hạt cát, nếu rơi vào mắt sẽ làm ta khó chịu, đau khổ; nhưng nếu những hạt cát ấy rơi vào miệng một con sò thì nó sẽ biến thành một hạt ngọc trai quí giá. Đau khổ đi theo chúng ta như hình với bóng, không thể nào rời nó được. Nhưng có một cái lạ: nếu ta đuổi nó thì cái bóng đi mất, nếu ta chạy trốn thì nó chạy theo. Chỉ còn có cách sẵn sàng chấp nhận đau khổ thì đời ta mới sung sướng được.
12. Hạt trân châu.
Ngày xưa có ba chàng kỵ mã vượt qua một bãi sa mạc quạnh hiu không một bóng người. Một hôm trời vừa sấp tối, ba chàng kỵ mã cũng vừa đến một bờ suối đã khô cạn từ lâu. Bỗng chốc trong đêm tối có một tiếng nói bí mật vang lên mơ hồ:
- Hãy dừng bước lại.
Cả ba đều tuân lệnh. Tiếng nói bí mật ấy lại tiếp tục vang lên mơ hồ:
- Các ngươi hãy xuống ngựa, bước xuống lòng suối, nhặt lấy cho mình ít đá sỏi, bỏ vào túi rồi tiếp tục lên đường.
Cả ba làm theo lời chỉ dạy thiêng liêng. Rồi tiếng nói kia lại cất lên trầm ấm:
- Hay lắm, các ngươi đã làm theo lệnh ta. Ngày mai, khi vầng đông vừa ló rạng, các ngươi sẽ vừa sung sướng vừa buồn bã.
Các kỵ mã lên đường rong duổi ban đêm. Quả đúng như lời mách trước, khi mặt trời vừa lên, ba chàng kỵ mã thấy cái gì lấp lánh trong túi mình. Thì ra, những hòn sỏi họ lấy khi hôm trước bây giờ đã trở thành những hạt trân châu sáng ngời muôn sắc. Cả ba đếu sung sướng, nhưng cũng vừa nuối tiếc. Họ sung sướng vì nhận được của báu, nhưng họ hối tiếc vì nhặt ít quá. (Nguyễn văn Huệ, báo Rạng đông, số 64, th 11/1970, tr 26)
13. Kinh dâng mình của cha Charles de Foucauld
Lạy Cha, con phó trót con cho Cha,
Xin hãy làm nơi con mọi sự đẹp ý Cha.
Cha làm chi mặc lòng, con cũng cám ơn Cha.
Con sẵn sàng luôn luôn, con nhận lãnh tất cả, miễn ý Cha làm tròn trong con, trong hết thảy loài Cha tạo dựng:
Con chẳng muốn chi khác nữa, vì Cha là Chúa trời con.
Con phó trót linh hồn con trong tay Cha, con dâng linh hồn con lên Cha, với tất cả tình yêu của lòng con.
Vì con mến Cha, và vì mến Cha nên con thấy cần phải hiến thân con.
Lạy Cha, con phó trót mình con cho Cha, không do dự đắn đo, song vô cùng tin cậy. Vì Cha là Cha của con.
14. Lễ Suy tôn Thánh giá--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Lòng mến mộ và tôn kính Thánh Giá đã có từ lâu đời trong Kitô Giáo. Cụ thể, khi đề cập đến Giáo hội từ thời sơ khởi, vào thế kỷ đầu của ngàn năm thứ nhất, nhiều chuyên gia về giáo sử, đặc biệt như Giáo phụ Tertuliano, đều cho biết: “Bất kỳ làm một việc gì có ý nghĩa, người Kitô hữu đều làm dấu Thánh Giá." Thậm chí người Kitô hữu có thói quen làm dấu Thánh Giá trên người và vật như dấu chỉ sự chúc lành. Nhưng, phải đến thế kỷ thứ 4 trở đi mới có ngày lễ dành để tôn vinh Thánh Giá.
Đầu tiên, khi tìm được di tích Thánh Giá vào năm 326, bà Helena cho xây cất hai đền thờ, một tại núi Calvario và một tại Mộ Thánh ở Thánh Địa. Lễ khánh thành và cung hiến hai đền thờ này được tổ chức trọng thể tại Giêrusalem vào hai ngày 13 và 14 tháng 9 để mừng Đền thờ Calvario và Mộ Thánh. Năm 335, ngày 14 tháng 9 cũng mừng kính ngày tìm được Thánh Giá thực vào 14 tháng 9 năm 326. Vì gỗ Thánh Giá thực rất quý, nên được phân ra nhiều phần rất nhỏ, chia cho các Giáo hội tại mỗi nơi. Thành Constantinopoli được phần Gỗ Thánh lớn hơn và phần còn lại được lưu niệm tại Giêrusalem. Từ đó, ở Giêrusalem lễ tìm được Thánh Giá mừng kính trọng thể vào ngày 14 tháng 9.
Tiếp đến, Lễ Suy Tôn Thánh Giá được thiết lập tại Giêrusalem vào 14/9/629 như chứng tích sau:
Thế kỷ thứ 6, khi giặc giã nổi lên, vua Ba Tư Khosroès 1 (531–579), đem quân đến Cận Đông và đánh thắng quân của đế quốc Roma ở Phương Đông, chiếm đóng và tàn phá Thánh Địa, rồi cướp luôn cả Thánh Giá thực ở Giêrusalem. May thay, lúc ấy có ông Heraclius (575–641), vị tướng tài giỏi mới 35 tuổi, con của tổng trấn thành Carthage, đã lật đổ bạo chúa Phocas, rồi lên nắm quyền ở Constantinopoli ngày 3/10/610, và làm hoàng đế Byzantin, lấy hiệu là vua Heraclius 1 (610–641). Ông đã anh dũng điều khiển trận đánh và chiến thắng đầu tiên ngày 12/12/627. Ông rượt đuổi vua Khosroès 1 đến Ctésiphon, và tại đây, con trai của Khosroès là Siroes Shirva đã giết cha và giao nộp Thánh Giá thực lại cho vua Heraclius 1.
Năm 629, Thánh Giá được kiệu về Constantinopoli, rồi từ đó rước khải hoàn về Giêrusalem. Vua Heraclius muốn vác Thập Giá vào đền thờ để tạ ơn Chúa. Ông mặc vương phục và đội mũ hoàng đế. Nhưng khi vác Thánh Giá lên vai, ông thấy quá nặng. Tức thì, Đức Zacharias, Giáo chủ Giêrusalem, liền nói với vua: “Xin hoàng đế thận trọng, vì với mũ miện và y phục vương quyền mà ngài đang mặc, ngài không hợp để vác Thập Giá giống như thân phận khó nghèo, khiêm tốn của Chúa Giêsu Kitô."
Nhà vua nghe theo lời Đức Giáo chủ, bỏ hết mũ miện, vương phục. Tức thì gỗ Thập Giá trở nên nhẹ nhàng và Heraclius 1 vác Thập giá gỗ vào đền thờ. Với gỗ Thập Giá Thánh, Thiên Chúa còn ban nhiều phép lạ, trong số có một người chết được sống lại; bốn người bất toại được lành bệnh; mười người phong cùi được trở nên sạch sẽ, bình phục; mười lăm người mù được sáng mắt; vô số người bị quỷ ám được giải thoát...” (Theo nghiên cứu của Abbé L. Jaud, Vie des Saints, 1950)
15. Ba thái độ trước thập giá
Hôm đó, cô và Betty ghé một sạp bán đồ phế thải. Ann vừa lôi ra một khay đồ linh tinh, Betty bước tới hỏi:
– Có đồ gì đáng giá không?
Ann trả lời:
– Không, toàn là đồ năm vố thôi.
Đoạn cô bước sang bên cạnh nhường cho Betty vào xem. Betty chăm chú nhìn vào đống lặt vặt, nhặt lên một cây thánh giá cũ kỹ han rỉ và nói:
– Thật khó mà tin được. Tôi đã tìm được đồ quý: cây thánh giá này làm bằng chất bạc xưa.
Cô bạn của Ann bèn về nhà lau chùi và đánh bóng cây thánh giá. Đây quả là một vật quí. Về sau, đứa con trai bảy tuổi của Betty tên Bobby cầm cây thánh giá lên, cung kính ngắm nghía hồi lâu. Bỗng nhiên cậu bé oà lên khóc. Betty liền hỏi:
– Con sao vậy?
Bobby nói:
– Con không cầm lòng được khi thấy Chúa Giêsu bị treo trên thập giá.
******
Ba người nhìn vào cây thập giá, có ba thái độ khác nhau: một người dửng dưng cho là đồ ve chai, người khác thích thú vì khám phá ra vật quí báu, còn người khác nữa lại xúc động rơi lệ vì nhận ra Chúa Giêsu chịu đau đớn trên thập giá.
16. Thập giá nhẹ nhất
Có một câu chuyện dụ ngôn sau đây về một người đàn bà cứ phàn nàn, than trách Chúa vì phải vác một thập giá quá nặng. Một hôm, Chúa đưa người đó đến một cửa hàng bán các thập giá đủ cỡ để người đó chọn lựa. Người đàn bà hăm hở bước vào cửa hàng và dựng cây thập giá của mình vào tường trước cửa. Bà tự nhủ trong lòng: “Đây là chuyện cả đời người, phải hết sức cẩn thận trong việc lựa chọn.”
Sau đó, bà đi xem mọi nơi trong cửa hàng, và thử hết cây thập giá này đến cây thập giá khác, nhưng không tìm được một cây nào làm chị vừa ý vừa lòng. Cây thì quá dài, cây thì quá ngắn. Cây thì quá cong queo, cây thì quá nặng. Chị tiếp tục tìm kiếm. Cuối cùng, chị tìm được cây thập giá mà chị cho là ưng ý nhất. Chị mang đến với Chúa và nở nụ cười mãn nguyện, thưa với Chúa, “Lạy Chúa, đây chính là cây thập giá mà con hằng tìm kiếm. Con xin vác lấy.”
Khi chị vừa hí hửng ra khỏi cửa hàng, thì Chúa mỉm cười nói với chị: “Ta rất vui mừng vì con đã chấp nhận cây thập giá này. Đây cũng chính là cây thập giá mà con đã vác vào và dựng ở tường của cửa hàng này.”
17. Sức sống từ thánh giá
Có hai bà già mắc bệnh lao, nằm bên cạnh nhau trong một căn phòng bệnh viện. Họ biết rằng cơn bệnh của họ không còn phương cách nào cứu chữa, chỉ còn chờ ngày được nghỉ yên dưới lòng đất lạnh mà thôi.
Một bà thì cô độc, chỉ có một mình, bởi vì gia đình và những người thân đều đã chết vì trúng đạn pháo kích. Còn bà kia thì đã có chồng, nhưng ông chồng này đã bỏ bà từ lâu và hiện đang sống với người vợ lẽ. Bà biết rõ điều ấy.
Trước những nỗi đớn đau và bất hạnh như thế, mọi lời an ủi và khích lệ dường như đã trở nên thừa thải, nếu không muốn nói là đã trở nên lẩm cẩm và ngu ngốc. Thế nhưng, mỗi lần viếng thăm, tôi đều thấy hai bà cầm cây Thánh giá và nói với tôi:
- Cuối cùng chỉ còn lại cây Thập giá. Bởi vì chính tại Thập giá, Chúa Giêsu đã đau khổ trước chúng tôi và hơn chúng tôi bội phần. Cây Thập giá của Chúa đã nói với chúng tôi nhiều điều và đã đem lại cho chúng tôi niềm an ủi tuyệt vời nhất giữa những đắng cay chua xót của cuộc đời.
Hôm nay, chúng ta không phải chỉ suy tôn Thánh giá trong lời kinh tiếng hát hay trong những nghi thức phụng vụ, mà còn phải biết suy tôn Thánh gía trong chính cuộc sống chúng ta, bằng cách chấp nhận những hy sinh gian khổ mà chúng ta gặp phải vì lòng yêu mến Chúa, bởi vì đó chính là cây thập giá đời thường Ngài muốn chúng ta vác lấy để bước theo Ngài.
Bên trên những gai nhọn là cánh hồng nở thắm. Bên trên thập giá đời đời thường là vinh quang phục sinh chờ đón.
18. Thánh Giá chiến thắng
Chúng ta biết 300 năm đầu, Giáo Hội Mẹ Roma bị đế quốc Roma trù dập, nhất là triều đại vua Nêrô, những tín hữu thời ấy phải sinh hoạt tôn giáo trong các hang toại đạo, là nghĩa trang ngầm dưới đất, họ lợi dụng luật Roma không cho phép ai động đến nơi có mồ mả. Tuy nhiên nếu bị phát hiện ai là người Công Giáo thì phải chịu những hình khổ kinh hoàng: người thì quăng cho thú dữ ăn thịt, kẻ khác bị treo trên cây gỗ và đốt lửa dưới chân… Suốt 300 năm, các tín hữu thời sơ khai ở Roma không thể xây Nhà Thờ được.
Năm 312, tướng Constantino đưa bốn vạn quân đánh chiếm thành Roma, quân đội Roma đông gấp ba lần cùng với những chiến hào và nhiều vũ khí tối tân, tướng Constantino khó mà thắng được. Khi Constantino đưa quân bao vây thành Roma, ông cầu nguyện với Chúa rằng: “Lạy Chúa, tuy tôi là người ngoại đạo, tôi xin Chúa cho tôi dấu chỉ có thắng được Roma hay không? Nếu tôi đánh chiếm được thành này, tôi sẽ không bao giờ quên ơn Chúa.” Vừa dứt lời cầu nguyện, ông nhìn lên trời thấy lá cờ Thập Giá bay phất phới với hàng chữ “In hoc signo vinces” (cứ dấu này ngươi chiến thắng). Constantino hết sức vui mừng, ông ra lệnh cho binh lính phải khắc trên cán gươm hai chữ PX, đây là chữ tắt của tiếng Hy Lạp, có nghĩa là Chúa Kitô, rồi ông ra lệnh giương cao thập giá thúc quân tấn công, thế là quân đội ông mạnh như vũ bão ào ạt tràn vào thành, quân Roma do tướng Maxence chỉ huy không kịp trở tay, chính quân đội của ông dùng gươm giết lẫn nhau, vì họ muốn chống lại vị chỉ huy của họ!
Ông Constantino lên làm vua lãnh đạo Roma vào ngày 28 tháng 10 năm 312, và ông ra lệnh cho toàn đế quốc Roma phải tôn trọng đạo Công Giáo, qua chiếu chỉ Edit de Milan phải chấm dứt bách hại người Công Giáo. Ông dâng cung điện của ông để làm Đền Thờ đầu tiên của Giáo Hội Roma. Đó là Đền Thờ Laterano, trong Phụng Vụ Hội Thánh hằng năm vẫn dành riêng ngày 09 tháng 11 để kính nhớ việc cung hiến Đền Thờ này. Từ đó, vua Constantino ra lệnh cho toàn đế quốc Roma cho phép người Công Giáo được tự do xây Đền Thờ.
Năm 326, bà Hêlêna, mẹ của vua Constantino cũng vì nhớ ơn Chúa ủng hộ cho con bà thành công, bà đã cho người đi tìm Thánh Giá Chúa và người ta đào bới đồi Golgotha, gặp một nơi có ba cây thập giá nằm gần nhau, người ta đoán đây là nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh với hai tên trộm. Nhưng không biết đâu là Thập Giá của Chúa Giêsu. Lúc ấy, người ta đưa đến những người tàn tật, què quặt,đui mù, sờ vào ba cây thập giá, riêng chỉ có một cây bệnh nhân nào đụng đến đều được lành mạnh. Đó là dấu chỉ người ta xác định Thập Giá Chúa Giêsu.
Năm 628,vua Ba Tư là Khosroès I (năm 531-579) chiếm thành Giêrusalem và cướp Thập Giá đưa về Ba Tư. Sau này vua Heraclius I (610-641) rượt đuổi vua Khosroès I đến Ctésiphon, tại đây con trai của vua Khosroès là Siroes Shirva đã giết vua cha và giao cây Thập Giá lại cho vua Heraclius I vào ngày 12 tháng 12 năm 627. Đến năm 629 Thập Giá được kiệu về Constantino rồi từ đó rước khải hoàn về Giêrusalem.
Thứ Sáu Tuần Thánh năm ấy, vua Heraclius cho tổ chức rước Thập Giá mà ông mới chiếm lại được đưa lên đồi Golgotha để cử hành lễ Mở Khăn. Chính vua mặc áo cẩm bào vác Thập Giá.Trong đoàn rước đó có Giám mục Zacharias, giáo chủ thành Giêrusalem chủ sự. Đoàn rước đi được một quãng đường, thì tự nhiên vua Heraclius ngã xuống, nhiều người đến nâng vua dậy để tiếp tục cuộc rước, nhưng vua không thể chỗi dậy được. Lúc đó Giám mục Zacarias lên tiếng nói: “Vua không thể chỗi dậy vác Thập Giá được, vì vua không giống Chúa Giêsu! Chúa Giêsu xưa kia bị lột trần như tên nô lệ vai vác thập giá, còn vua thì mặc áo lộng lẫy, nên không thích hợp để vác Thập Giá của Chúa.” Vua nghe thế, ông liền cởi áo cẩm bào và thay áo thường dân, lúc đó vua mới đứng dậy tiếp tục vác Thập Giá lên đồi Sọ!
19. Thờ lạy thánh giá
Có một thiếu nữ nô lệ da đen đạo đức và trung thành nên được chủ quí mến. Mỗi khi chọn thêm đầy tớ mới, ông để cô chọn lựa giùm ông. Một hôm cô lại chọn một ông già có tật. Ông chủ nhất định không chịu mua vì nghĩ rằng hắn chẳng được việc gì, nhưng cô nữ tì đó cứ nài nỉ mãi nên buộc lòng ông phải mua người nô lệ già cả tật nguyền đó.
Ít lâu sau, người nô lệ già này bị bệnh nặng và được cô nữ tì đó săn sóc với tình cảm như một người con thảo. Ông chủ ngạc nhiên hỏi:
- Ông ấy là cha cháu hay sao mà cháu chăm sóc kỹ như thế.
- Thưa ông, đó không phải là bố cháu, cũng không phải là bà con của cháu, mà còn là kẻ thù của cháu nữa. Khi cháu còn nhỏ, ông ta đã bắt cóc cháu để bán như một đứa nô lệ. Cháu làm thế, vì cháu tin vào chiến thắng sau cùng của tình yêu Đức Kitô.
Tình yêu Đức Kitô đã chiến thắng, và cây thập giá được dựng lên khắp nơi. Ở đâu có cây thập giá ở đó vang lên lời ca “Đây là cây thánh giá, nơi treo Đấng cứu độ trần gian - chúng ta hãy đến thờ lạy.”
20. Chết cho người mình yêu
Gianna sinh năm 1922 tại Milan, nước Ý, là con thứ 10 trong gia đình có 13 anh chị em. Trưởng thành, cô lập gia đình với Pietro Molla và sinh được ba người con. Năm 1962, khi đã 40 tuổi và sau 13 năm không sinh nở, Gianna mang thai lần thứ tư. Khi khám sức khỏe định kỳ, bà biết thai nhi phát triển khá tốt nhưng một khối u nằm cạnh thai nhi đang lớn dần. Là bác sĩ chuyên khoa giải phẫu, nên Gianna biết rất rõ, nếu cắt bỏ khối u, thai nhi sẽ chết, nhưng nếu muốn con bà chào đời an toàn, tính mạng của bà sẽ lâm nguy. Sau khi suy nghĩ và cầu nguyện, Gianna quyết định chấp nhận hy sinh tính mạng, và chịu đựng mọi đau đớn để con bà được sống.
Thứ 6 Tuần Thánh năm 1962, Gianna chuyển dạ, bà nói với nữ tu y tá trong bệnh viện:
- Thưa Sơ, chắc tôi không thể sống được một tuần nữa, nhưng tôi sẵn sàng chấp nhận tất cả, miễn là đứa trẻ được sinh ra mạnh khỏe.
Tối thứ bảy Tuần Thánh, các bác sĩ trong bệnh viện phải phẫu thuật đưa bé gái con bà ra đời an lành mạnh khỏe. Sau lễ Phục Sinh đúng một tuần, Gianna thở hơi cuối cùng. Bà hy sinh cho con bà được sống, đã vui lòng chấp nhận thánh giá cuộc đời và chu toàn trách vụ người mẹ cách trọn hảo. Năm 1994, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phong chân phước và 10 năm sau, chính ngài tôn phong hiển thánh cho bà.
Có người chỉ thấy cành gai mà không thấy bông hồng, nhưng với người hiểu biết thì trên đỉnh của cành hồng đầy gai nhọn là đóa hoa khoe sắc và ngát hương. Cũng vậy, người bi quan và không có niềm hy vọng sẽ thấy cuộc đời là một chuỗi khổ đau; người có đức tin sẽ nhận biết thập giá là phương thế giúp họ nên giống Đức Giêsu, vì thế họ vui lòng đón nhận mọi thử thách để được kết hợp với Người trong tình yêu, dám chấp nhận thua thiệt vì hạnh phúc của đồng loại.
21. Những lời cuối cùng của Steve Jobs
Những lời cuối cùng của Steve Jobs - người sáng tạo ra Iphone Apple - chấn động cả thế giới:
"Tôi đã đạt đến tột đỉnh của thành công. Trong con mắt người khác, cuộc đời tôi là một biểu tượng của thành công. Tuy vậy phía sau của công việc tôi có rất ít niềm vui. Tài sản của tôi cuối cùng cũng bình hoá với tôi. Trong lúc này trên giường bệnh viện, hồi tưởng về cuộc đời, những lời khen ngợi, tự cao, tự hào về tài sản nhưng tôi cảm thấy thật vô nghĩa trước tử thần, cái chết.
Trong bóng tối, khi nhìn ánh đèn màu xanh và tiếng ồn ào của máy dưỡng khí, tôi cảm nghiệm được những hơi thở của tử thần rất gần kề. Bây giờ tôi mới hiểu thấu, nếu một lần bạn đã có tiền đủ cho cuộc đời của bạn, bạn hãy đeo đuổi một mục đích khác không liên quan đến tiền bạc. Nên tìm một điều gì quan trọng hơn. Ví dụ như là lịch sử tình yêu nhân loại, nghệ thuật, ước mơ tuổi thơ… Đừng làm nô lệ cho vật chất, giàu sang, vì nó sẽ biến bạn thành một người yếu ớt như tôi.
Thượng Đế tạo dựng chúng ta để cảm nghiệm được tin yêu trong tim, chứ không phải những ảo tưởng về tiền tài, danh vọng như tôi đã làm trong suốt cuộc đời nhưng không thể đem theo tôi được. Tôi có thể mang theo được những kỉ niệm của yêu thương. Đây mới chính là sự giàu sang sẽ có thể đồng hành với bạn, là sức mạnh, ánh sáng soi sáng cho bạn tiến tới. Tình yêu có thể đi hàng ngàn cây số và chính vì thế cuộc đời không có giới hạn. Đi, tiến đến nơi mà bạn muốn, Cố gắng lên để đạt được những mục đích. Tất cả là ở trong tim và trong lòng bàn tay của bạn.
… Mất tài sản mình có thể tìm lại được, có một cái khi đã mất thì không thể tìm lại được: sự sống. Dù đang ở giai đoạn nào trong cuộc đời, cuối cùng, tất cả phải đối diện khi bức màn sự sống kéo xuống. Làm ơn hãy nâng niu và nhận thức được giá trị tình yêu gia đình, tình yêu bạn đời và tình yêu bạn hữu, gìn giữ sức khỏe cho bạn và chăm sóc đồng bào của bạn."
Và Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy đúc một con rắn đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được sống.” Môsê đúc một con rắn đồng, treo nó lên làm dấu, và kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được chữa lành.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng Nicôđêmô rằng: "Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời. Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời.
“Quả thật, Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người, để tất cả những ai tin vào Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ."
ĐỨC MẸ SẦU BI – ĐỨNG GẦN THẬP GIÁ
Lời Chúa: Ga. 19, 25-27
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, đứng gần thập giá Chúa Giêsu có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria vợ ông Cơ-lô-pát, và Maria Mađalêna. Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng: "Thưa Bà, này là Con Bà." Rồi Người lại nói với môn đệ: "Này là Mẹ con."
Và từ giờ ấy, môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình.
Đó là lời Chúa.
TRUYỆN KỂ
1. Ở bên Đức Mẹ sầu bi
Vào ngày thứ sáu tuần thánh tại các nước châu Mỹ La Tinh được cử hành với một truyền thống rất đặc biệt, ở đó người ta sống lại sự hiện diện của Mẹ Maria dưới chân thập giá Chúa Giêsu: Các phụ nữ tập trung lại dưới chân thập giá, họ đi lại từng bước những khổ nạn của Chúa Giêsu trong tiếng hát, trong những lời cầu nguyện và cả trong tiếng khóc nữa.
Các tín hữu còn giữ một truyền thống khác gọi là “chia buồn." Truyền thống này được cử hành sau nghi thức phụng vụ của Giáo hội vào chiều thứ sáu tuần thánh: Mọi người trở vào nhà thờ để an ủi Đức Mẹ Sầu Bi, như thể được ở bên Mẹ khi Mẹ đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu, dân chúng chia sẻ nỗi đau của Ngài, vừa nói lên chính nỗi đau của họ. Trong nghi thức truyền thống chia sẻ nỗi đau buồn này là bức tượng của người phụ nữ mặc áo đen đứng dưới chân thập giá, khi xác Chúa Giêsu được tháo gỡ khỏi thập giá, thì bức tượng của người phụ nữ được đặt ở đầu chiếc quan tài.
Người phụ nữ mặc áo đen ấy dĩ nhiên tượng trưng cho Mẹ Maria, là Mẹ của Người Con bị hành quyết, là người đàn bà luôn phấn đấu để tin vào sứ điệp của Con. Mẹ đã phải dằn lại cơn giận dữ trước thái độ phản bội của dân chúng, và của những người môn đệ thân tín của Chúa Giêsu. Mẹ đã phải tha thứ cho tất cả mọi người… (Theo R. Veritas).
2. Kinh Hãy Nhớ
Mẹ Têrêsa kể: "Khi hội dòng Thừa Sai Bác ái vừa được thành lập, chúng tôi khẩn thiết cần một ngôi nhà để làm nhà mẹ, thế là tôi khấn xin Đức Trinh Nữ một căn nhà và hứa sẽ dâng cho Đức Mẹ 85.000 kinh Hãy Nhớ:
Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria, là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người này chạy đến cùng Đức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời. Nhân vì sự ấy con lấy lòng trông cậy than van chạy đến sấp mình xuống dưới chân Đức Mẹ, là nữ đồng trinh trên hết các kẻ đồng trinh. Xin Đức Mẹ đoái đến con, là kẻ tội lỗi. Lạy Mẹ là Mẹ Chúa cứu Thế, xin chớ bỏ lời con kêu xin, một rủ lòng thương và nhận lời con cùng. Amen.
Hồi ấy con số các dì chưa đông. Làm sao để trả nợ cho Mẹ Maria đây?
Cuối cùng tôi nghĩ ra cách: tập trung tất cả các trẻ em và những người đau yếu, chúng tôi đang chăm sóc tại Nirmal Hriday và Shishu Bhavan. Tôi dạy họ kinh Hãy Nhớ đó và tất cả chúng tôi cùng hứa đọc.
Chẳng bao lâu tòa nhà trở thành của chúng tôi.
3. Đứng dưới chân thập giá
Thánh Gioan mô tả Đức Mẹ dưới chân Thánh Giá:
- Người không rũ rượi như những người mẹ khác khi thấy con mình đang chết đau đớn. Nhưng người “đứng”, một tư thế rất kiên vững. Thế “đứng” của Đức Mẹ đã là đề tài cho bao người chiêm ngưỡng và suy gẫm: Stabat Mater dolorosa!
- Trong giờ phút đau khổ tột cùng này, không ai nâng đỡ an ủi Mẹ, trái lại Mẹ còn lãnh thêm nhiệm vụ “Thưa Bà, đây là con Bà."
“Kể từ giờ ấy, người môn đệ rước Người về nhà mình." Lạy Mẹ Maria, người môn đệ ấy là chính con. Kể từ hôm nay, con muốn rước Mẹ về ngôi nhà của lòng con và của cuộc đời con, để Mẹ cùng sống với con trong những lúc vui cũng như những lúc buồn, nhất là những lúc buồn; những khi sung sướng và nhất là những khi đau khổ, để Mẹ dạy con biết cách chịu đau khổ thế nào để những khổ đau ấy trở thành nguồn ơn cứu độ cho con và cho anh chị em con.
4. Đứng thẳng
Đức Cha Tihamer Toth có thuật lại một câu chuyện hết sức cảm động về một em bé tên là Barlaam như thế này. Thời kỳ cấm đạo đẫm máu trong thế kỷ thứ nhất của đạo Thiên Chúa, một người dân quê bị bắt và bị dẫn ra trước tượng thần Jupiter.
- Hãy bỏ hương vào lửa rồi dâng cúng cho thần linh chúng ta!
Người ta giục anh như thế.
- KHÔNG! anh trả lời...
Người ta bắt đầu hành hạ anh, nhưng anh vẫn đứng im. Người ta nâng tay anh lên trên ngọn lửa, người ta nhét hương vào bàn tay anh và bảo anh chỉ có việc bỏ hương rơi xuống lửa:
- Hãy bỏ hương xuống, mày sẽ được tự do.
- KHÔNG. Barlaam, người dân quê đó vẫn trả lời như thế. Anh vẫn đứng im, tay giơ lên... ngọn lửa bốc mạnh liếm hẳn vào bàn tay anh, hương bắt đầu bén khói, nhưng anh vẫn không động đậy... Bàn tay anh bị cháy xém với hương, nhưng Barlaam thà chịu chết vì Đạo còn hơn chối Chúa. Một quả tim biết chịu đựng!
Đó là thái độ của những người theo Chúa. Phải sống thật anh hùng. “Đứng thẳng!”
“Lúc ấy, đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người.... Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh”
5. Chết vì hoảng sợ
Một người hành hương đang định vào Baghdad thì gặp bệnh dịch ở dọc đường. Bệnh dịch cũng đang trên đường đi vào đó. Thấy thế người khách hành hương hỏi bệnh dịch:
- Mi định làm gì ở đó?
- Tôi sẽ giết 5000 người.
Người hành hương rùng mình và ngay lập tức anh thay đổi dự định và đi về hướng khác. Tuy nhiên, ít lâu sau anh gặp một người từ trong thành phố bị nạn dịch đó đi ra và được biết không phải 5000 nhưng là 50.000 người đã chết.
Liền sau đó anh lại gặp bệnh dịch đang đi tới một thành phố khác. Bằng một giọng thật nghiêm khắc anh buộc tội bệnh dịch:
- Mi nói láo. Mi nói chỉ giết 5000 người, vậy mà thực tế lại quá khác!
Bệnh dịch giải thích cách vui vẻ:
- Tôi chỉ giết có 5000 người. Số còn lại chết vì hoảng sợ”
6. Sức mạnh từ thánh giá cho người mẹ
Người ta kể về một người đạo đức nọ như sau: Trong một cơn bệnh thập tử nhất sinh, chỉ còn một phương thế duy nhất có thể hy vọng cứu sống bà đó là tiến hành cuộc giải phẫu. Người đàn bà chấp nhận cuộc giải phẫu, bà yêu cầu cho con trai bà được chứng kiến giờ phút đau khổ của bà. Vào thời buổi mà thuốc tê mê chưa có, thì bệnh nhân thường phải trải qua những cơn đau khủng khiếp. Mặc dù đau đớn vô cùng, nhưng người đàn bà vẫn cứ cắn răng chịu đựng.
Nhưng đến cuối giờ mổ, khi các y sĩ chạm đến gần tim, người đàn bà rùng mình kêu lên: "Lạy Chúa tôi." Chứng kiến cảnh đau đớn của người mẹ, người con trai không làm chủ được những cảm xúc, anh đã buột miệng thốt lên những lời phàn nàn phạm đến Chúa. Lúc bấy giờ người mẹ liền nghiêm nghị bảo con: "Con ơi, con hãy im đi, con làm mẹ đau đớn hơn các bác sĩ này nhiều. Con đã làm sỉ nhục Ðấng đã ban sức mạnh và an ủi mẹ."
Nói xong, bà ta mở bàn tay ra, và giơ cho mọi người xem một tượng chuộc tội nhỏ bà nắm chặt trong tay suốt giờ mổ. Và đó chính là thứ thuốc tê mê đã xoa dịu cơn đau đớn của bà.
Sau mấy tháng quằn quại trong đớn đau, người đàn bà đã yên nghỉ trong Chúa. Trước khi lìa đời, bà đã trao lại cho cậu con trai tượng ảnh chuộc tội và căn dặn: "Con hãy giữ lấy tượng chuộc tội này. Ðây sẽ là niềm an ủi của con."
7. Bảy sự đau khổ của Đức Mẹ
Lời của cụ ngôn sứ Simêon về Đức Maria (Lc 2, 25-35), là bài Tin Mừng chúng ta có thể đọc trong ngày lễ hôm nay, theo sách Phụng Vụ các bài đọc.
Trốn sang Ai-cập (Mt 2,13-15)
Lạc mất Đức Giê-su (Lc 2,41-52)
Đức Mẹ nhìn Đức Giê-su vác thập giá (Lc 23,27)
Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá (Ga 19,25-27), là bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay.
Đức Mẹ đón nhận thân xác đã chết của Đức Giê-su (Ga 19,38-40)
Đức Mẹ ở bên mộ Đức Giê-su (Ga 19,41-42)
Điều phải đánh động chúng ta, khi đọc qua danh sách bảy sự đau khổ của Đức Mẹ, đó là mọi sự đau khổ của mẹ đều có liên quan đến Đức Giê-su, con của Mẹ; một cách cụ thể, những đau khổ của Mẹ đến từ biến cố Giáng Sinh, đến từ đời sống ẩn dật, đến từ sứ mạng rao giảng Nước Trời, đến từ cuộc Thương Khó, đến từ Thập Giá, và sau cùng đến từ cái chết của Ngài.
8. Tình mẹ
Đứng trước vành móng ngựa, người con bị tuyên án tử hình vì những tội tày trời: cướp của giết người, buôn bán ma tuý.
Toà hỏi người mẹ đứng phía dưới: Bà có muốn nói gì với người con không.
Bà thưa: Xin quý toà hãy cho con tôi một cơ hội sống để làm lại con người. Xin cho tôi được chết thay nó.
THỨ HAI - LÀM VIỆC TỐT NGÀY SABBAT
Lời Chúa: Lc 6, 6-11
Vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu vào hội đường và giảng dạy. Khi ấy ở đó có một người tay hữu bị khô bại. Những luật sĩ và biệt phái quan sát xem Người có chữa lành người ấy trong ngày Sabbat không, để có cớ tố cáo Người.
Nhưng Người biết tư tưởng các ông, liền bảo người có tay khô bại rằng: “Ngươi hãy chỗi dậy mà đứng ra giữa đây." Người đó đứng thẳng dậy. Đoạn Chúa Giêsu bảo các ông ấy rằng: “Tôi hỏi các ông, ngày Sabbat được phép làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay là giết chết?” Rồi đưa mắt nhìn mọi người, Chúa bảo người đó rằng: “Ngươi hãy giơ tay ra." Người ấy giơ ra, và tay người ấy được lành.
Bấy giờ các ông đầy lòng tức giận, và bàn định với nhau xem có thể làm gì được Chúa Giêsu.
TRUYỆN KỂ
1. Cốt Lõi Của Ðạo
Văn hào Nga Léon Tolstoi có kể câu truyện ngụ ngôn như sau:
Một ông chủ nọ giao cho các gia nhân một công việc và bảo họ chỉ chu toàn công việc ấy mà thôi. Ông hứa sẽ thưởng công cho họ, nếu họ làm tốt công việc. Lúc mới bắt tay vào việc, ai cũng muốn làm vừa lòng ông chủ, cho nên để hết tâm trí vào công việc được giao.
Thế nhưng, một thời gian sau đó, nhiều người cho rằng để làm vừa lòng ông chủ và để được phần thưởng bội hầu hơn, cần phải làm nhiều việc khác nữa. Họ nghĩ ra nhiều việc khác và dần dần chú tâm vào đó đến độ quên bẵng đi công việc được chủ giao cho lúc đầu.
Bận bịu với những công việc mới, chẳng những họ không còn nhớ tới công việc đã được giao, mà cũng chẳng màng tới phần thưởng ông chủ đã hứa. Cuối cùng, tưởng mình đã có thể tự túc với công việc của mình, họ cũng gạt luôn ông chủ ra khỏi cuộc sống của họ.
Léon Tolstoi đưa ra kết luận: Người ta thường thấy một thái độ như thế nơi các Kitô hữu; họ thay thế đạo của tình thương bằng vô số những nghi lễ trống rỗng vô hồn.
2. Chúa Giêsu thổi tình yêu vào Lề Luật
Gilgal Zamir, người thanh niên 25 tuổi đã sát hại thủ tướng Do Thái Y. Rabin, khi anh ta bị tòa án tại Tel Aviv kết án tù chung thân, chẳng những anh ta không để lộ bất cứ cử chỉ hối hận nào, mà còn tuyên bố: “Tất cả những gì tôi làm là làm cho Chúa, làm cho Lề Luật, làm cho dân tộc Israel."
Thái độ của Gilgal Zamir đã khiến cho quan tòa đưa ra nhận định: Gilgal Zamir có những khuynh hướng vị kỷ, nhìn thế giới chỉ dưới hai màu trắng đen mà thôi; anh ta là sản phẩm của một nền giáo dục không quan tâm đủ đến những giá trị nhân bản và đạo đức cần mang lại cho người trẻ hiện nay…
3. Phục vụ lề luật
Em học sinh nọ bị rắn cắn phải đưa đi cấp cứu. Tuy nhiên, các bác sĩ trong bệnh viện, với lý do phải làm theo qui định và thực hiện những thủ tục đăng ký rườm rà, đã không cứu chữa ngay cho em trong cơn “thập tử nhất sinh." Hậu quả là em đã không qua khỏi.
Vì nệ luật và vụ hình thức, các luật sĩ và biệt phái đã trở thành những quan tòa khắt khe, xét đoán, nhỏ nhặt và tàn nhẫn. Họ giữ tỉ mỉ mọi điều luật mà không nhận ra rằng mình đang làm nô lệ cho luật. Trước sự bảo thủ, quá nệ luật của họ, Chúa Giêsu đã nêu lên câu hỏi trên đây để chất vấn họ, đồng thời qua đó, Người muốn họ trả lề luật về đúng vai trò và ý nghĩa của nó.
Thật vậy, lề luật được đặt ra là để phục vụ con người, chứ không phải con người phục vụ cho lề luật, mà quên mất tình yêu thương. Lúc đó, ta đã chất những gánh nặng lên vai người khác.
4. Bác ái phải trên lề luật.
Một buổi chiều năm 1953, nhiều nhân vật quan trọng cùng các phóng viên của các tờ báo lớn hồi hộp đợi chờ ở sân ga thành phố Chicago để chào đón bác sĩ Albert Schweitzer, người được chọn nhận giải thưởng Nobel nhờ công trình thử nghiệm các vaccin chữa bệnh truyền nhiễm trên chính cơ thể của mình để phục vụ cho những thôn làng nghèo khó nhất tại châu Phi.
Khi xe lửa ngừng ở sân ga, một người cao lớn, râu dài và mái tóc đã ngả mầu bước xuống. Máy ảnh chớp sáng liên tục. Các nhân vật quan trọng tiến lại bắt tay nồng nhiệt chúc mừng. Bác sĩ khiêm tốn mỉm cười cảm ơn. Bỗng, ông giơ tay xin lỗi mọi người rồi lách vội qua đám đông, tiến đến chỗ một người đàn bà da đen đang loay hoay vất vả nặng nhọc với hai chiếc va li lớn nghèo nàn. Ông giúp bà một tay đưa hành lý lên một chiếc xe buýt, loại chỉ dành cho người bình dân.
Sau khi chiếc xe lăn bánh, ông trở lại chỗ đám đông. Một người trong đoàn tiếp đón đã thốt lên:
- Đây là lần đầu tiên tôi nhận được một bài giảng sống động về tình yêu thương.
5. Người mạnh phải làm chủ được sức mạnh
Trong một giai thoại về Đức Thích Ca, có kể rằng: Một hôm ngài rơi vào tay một tên cướp. Tên này dọa giết ngài. Trước khi chết ngài xin hắn một ân huệ. Ngài chỉ vào một cây lớn trước mặt và nói:
- Ngươi hãy cắt đứt một nhánh cây.
Trong nháy mắt, tên cướp vung kiếm chém đứt nhánh cây. Đức Thích Ca nói tiếp:
- Bây giờ ngươi hãy tháp nhánh cây vào thân cây.
Tên cướp cười gằn, nói:
- Mi quả là tên khùng nên mới nghĩ rằng ta có thể làm được điều đó.
Đức Thích Ca liền dạy cho hắn một bài học:
- Ngươi mới là tên khùng khi nghĩ rằng sức mạnh con người là để gây thương tích và phá huỷ. Người có sức mạnh thực sự là người biết sáng tạo và chữa lành.
6. Sống vì lề luật
Một người Do Thái qua đời, sau khi đã khám nghiệm, các bác sĩ xác nhận người đó đã thực sự chết theo đúng ý nghĩa của y học và đã cấp giấy chứng thực để chôn cất.
Giữa lúc đang chuẩn bị hạ huyệt, người ta bỗng nghe có tiếng kêu trong quan tài. Mở nắp quan tài ra, mọi người rất đỗi ngạc nhiên thì thấy kẻ chết đã sống lại.
Thế nhưng, vị giáo trưởng chủ trì tang lễ ra hiệu cho mọi người thinh lặng rồi nói với kẻ chết sống lại như sau:
- Chúng tôi không biết rõ ông đang sống hay chết. Nhưng căn cứ theo giấy chứng thực của các bác sĩ, ông quả thực là người đã chết. Vậy chúng tôi cứ thi hành theo đúng nhận định của các bác sĩ.
Nói xong ông truyền cho tang lễ đóng nắp quan tài lại và tiếp tục nghi thức an táng.
Những người sống luật vì luật cũng tương tự như thế.
7. Điều quan trọng hơn
Một ngày nọ, Chúa Giêsu hiện ra với một tu sĩ già là người giữ cổng tu viện. Chính lúc Chúa xuất hiện, thì chuông báo đã đến giờ phải cho những người nghèo ở cổng tu viện ăn. Vị tu sĩ bị dằng co giữa Chúa Giêsu và những người nghèo. Nhưng rồi ông quyết định để Chúa Giêsu lại và đi đến với người nghèo. Khi trở lại, ông thấy Chúa Giêsu vẫn ở đó. Ngài nói với ông: "Nếu con đã không đến để cho người nghèo ăn, Ta cũng chẳng ở lại.”
Câu truyện trên đây và bài Tin mừng hôm nay có cùng một ý tưởng: Việc giúp đỡ kẻ túng thiếu cần được ưu tiên hơn cả việc thờ phượng và cầu nguyện.
Tôi có đặt việc ưu tiên cho kẻ túng thiếu không? Tại sao?
Những ai làm ngơ trước kẻ túng thiếu, thì dù người đó có kêu gào thì cũng chẳng được ai lắng nghe. (Ngạn ngữ Do thái)
8. Tình yêu phải hy sinh
W.O Saunders viết về cha của ông như sau: "Tôi đã thấy người vá giày vất vả cả giờ để lôi những con ốc rỉ khỏi tấm ván để sửa chữa khi vá hàng rào, nhờ đó tôi được mang những đôi giày tốt hơn và được nhàn rỗi hơn người.” Tất cả chúng ta có thể nhớ lại một hy sinh tương tự của cha mẹ đối với chúng ta. Nhưng các ngài chịu đựng một cách vui vẻ, cũng như thánh Phaolô đã vui vẻ chịu đựng vì những người ngài chăm sóc.
Tôi có kiên nhẫn chịu đựng cách vui vẻ để giúp đỡ những người thân yêu và những người cần đến tôi không?
Ai giúp anh em là giúp chính mình (Seneca).
9. Tỷ lệ vàng chết chóc
Theo cuộc tổng điều tra dân số năm 2009 nước ta đang bước vào thời kỳ tỷ lệ dân số vàng, nghĩa là cứ 2 người lao động mới phải nuôi 1 người. Tuy nhiên bên cạnh đó còn có những con số biết nói khác đó là liên tiếp trong nhiều năm gần đây, Việt Nam luôn luôn nằm trong “top ten” những nước có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới. Theo thống kê của Uỷ ban Kế hoạch hoá gia đình, mỗi năm có khoảng 1,2-1,6 triệu ca phá thai, nghĩa là cứ một phút có 3 thai nhi bị sát hại. Hoá ra muốn xây dựng một cuộc sống phồn vinh thì người ta đã áp dụng biện pháp “giết chết thay vì cứu sống.” Chúa Giêsu thúc bách chúng ta trả lời vấn nạn đầy thách đố này: “Ngày sa-bát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay huỷ diệt?” Không thể trả lời thoả đáng nếu chỉ dừng lại ở giải pháp xã hội chính trị, trái lại, phải dựa vào thế giá của Thiên Chúa : Nếu ngày sa-bát, ngày của Chúa, phải làm điều lành thay vì điều dữ, phải cứu sống thay vì giết chết, thì điều đó nói lên rằng đó là một mệnh lệnh tuyệt đối, phải tuân thủ cách vô điều kiện, vì nó đụng chạm đến chính Thiên Chúa .
Bạn được mời gọi làm chứng nhân cho nền văn hoá sự sống, dù rằng quanh bạn nền văn hoá sự chết xem chừng đang lấn lướt. Bạn nhớ lời thánh Phaolô khuyên nhủ: “Hãy làm việc lành, đừng sờn lòng nản chí” (Gl 6,9).
10. Không có gì là không thể
Trong từ điển của đức tin Kitô giáo, có một chữ cần được loại bỏ. Đó là chữ “không thể.” Trong ngày truyền tin, sứ thần Gáprien đã xác quyết cùng Đức Maria: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37). Với Phêrô và các bạn, vất vả suốt đêm mà không được con tép nào, việc đánh bắt cá ban ngày tưởng chừng như không thể. Tuy nhiên, tin tưởng vâng lời Đức Giêsu, các ông đã được một mẻ cá lạ lùng.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng minh chứng cho ta về điều không thể này. Giơ tay ra là động tác không thể làm được với người khô bại tay. Thế nhưng, tin tưởng vào lời Đức Giêsu, anh vẫn cố gắng thử làm theo lời Ngài dạy. Nhờ vậy, anh được chữa lành, bàn tay phải của anh trở lại bình thường. Chắc chắn cuộc đời anh từ nay sẽ tươi sáng hơn.
Mời Bạn gạt bỏ chữ “không thể” ra khỏi tự điển sống đức tin của bạn. Bạn mệt mỏi trước một nết xấu thâm căn cố đế hay bản chất nóng nảy của mình? Bạn bi quan chán nản trước một người thân quen chứng nào tật nấy? Bạn thất vọng khi vấp phải một thất bại quá lớn? Hãy tin tưởng cầu nguyện và nỗ lực dùng mọi phương thế để cải thiện, chắc chắn rốt cuộc, điều tưởng như không thể sẽ trở thành có thể.
THỨ BA - CHỌN NHÓM MƯỜI HAI
Lời Chúa: Lc 6, 12-19
Trong những ngày ấy, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và suốt đêm, Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Sáng ngày, Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông đồ: Đó là Simon, mà Người đặt tên là Phêrô, và em ông là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philipphê và Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon cũng gọi là Nhiệt Thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariốt là kẻ phản bội.
Người đi xuống với các ông, và dừng lại trên một khoảng đất bằng phẳng, có nhóm đông môn đệ cùng đoàn lũ dân chúng đông đảo từ khắp xứ Giuđêa, Giêrusalem và miền duyên hải Tyrô và Siđôn đến nghe Người giảng và để được chữa lành mọi bệnh tật. Cả những người bị quỷ ô uế hành hạ cũng được chữa khỏi, và tất cả đám đông tìm cách chạm tới Người, vì tự nơi Người phát xuất một sức mạnh chữa lành mọi người.
TRUYỆN KỂ
1. Chúa chọn
Lịch sử ơn cứu rỗi đã khởi đầu và tiếp diễn bằng những cuộc tuyển chọn. Ở khởi đầu lịch sử này, từ trong đám dân du mục vô danh tại miền Lưỡng hà địa, Thiên Chúa đã chọn Abraham; trong những người con của ông, Ngài chỉ chọn Isaac; và trong những người con của Isaac, Ngài chỉ chọn Yacob làm người cha của mười hai chi tộc Israel. Ðể thực hiện cuộc giải phóng con cái Israel ra khỏi ách nô lệ Ai Cập, Ngài đã chọn Môsê làm thủ lãnh. Sau khi Israel đã được Ngài chọn làm dân riêng và qua đó thực thi chương trình cứu rỗi, Thiên Chúa cũng tiếp tục một đường hướng: Ngài chọn lựa một số người và trao cho họ một trách vụ đặc biệt: Ngài đã chọn Ðavít làm vua, thay thế cho Saul; Ngài đã chọn một số người làm ngôn sứ cho Ngài.
Tất cả những chọn lựa của Thiên Chúa đều bất ngờ, nghĩa là vượt lên trên những tiêu chuẩn chọn lựa thông thường của con người. Từ Abraham qua Môsê, đến các ngôn sứ và Ðavít, tất cả đều được chọn lựa không phải vì tài năng đức độ riêng của họ: Môsê chỉ là một người ăn nói ngọng nghịu; Ðavít là cậu bé kém cỏi nhất trong số anh em mình, Yêrêmia, Isaia đều nhận ra nỗi bất lực yếu hèn của mình khi được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ.
Suy niệm về việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12 tông đồ của Ngài, chúng ta được mời gọi nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta, đồng thời nói lên niềm tín thác tuyệt đối và tình yêu của Ngài.
2. Ai tìm thì sẽ gặp
Cả 4 chúng tôi đã tham gia chiến dịch “ánh sáng văn hóa hè” tại vùng biên giới thuộc tỉnh Tây Ninh. Chúa nhựt tuần đầu tiên, chúng tôi phải hỏi thăm hết một giờ rưỡi mới tới được nhà thờ. Chỗ chúng tôi ở chỉ có một vài gia đình công giáo và hầu hết thỉnh thoảng mới đi lễ vì nhà thờ quá xa. Mà xa thật, mưa thì lầy lội, còn nắng thì bụi mù.
Trên đường đi, chúng tôi cứ nghĩ là nhà thờ chắc không đông. Nhưng đến nơi, chúng tôi thấy cả một nhà thờ đông đúc. Nhà thờ không rộng, cũng chưa có cha xứ. Cha thì từ nơi khác về dâng lễ, còn giáo dân thì đến từ nhiều nơi khác nhau.
Chúng tôi còn được biết ở đây chỉ có một lễ vào sáng Chúa nhựt nên nhiều gia đình phải thay phiên nhau đi lễ hàng tuần. Họ ước ao có cha xứ để được dự lễ thường xuyên hơn. Ra về, ai nấy trong chúng tôi đều cảm thấy như được thúc bách đến gần Chúa hơn, hạnh phúc dù có phải đi xa và mệt nhọc.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tìm kiếm Chúa trong những hoàn cảnh khó khăn nhất.
3. Ơn thiên triệu
Chúa Giêsu đã chọn các môn đệ của Ngài theo những tiêu chuẩn bất ngờ nhất. Mười hai Tông đồ đã được Ngài chọn làm cộng sự viên thân tín nhất và đặt làm cột trụ Giáo hội, không phải là bậc tài ba xuất sắc, cũng không phải là thành phần ưu tú thuộc giai cấp thượng lưu trong xã hội; trái lại họ chỉ là những dân chài quê mùa dốt nát miền Galilê, có người xuất thân từ hàng ngũ thu thuế là hạng người thường bị khinh bỉ.
Đọc trong toàn bộ Kinh Thánh, chúng ta thấy Chúa yêu thích những tâm hồn rộng mở, biết sống hài hòa, biết đón nhận anh em.
Ngài yêu thích những tâm hồn đơn sơ nhỏ bé, thích sống cuộc đời khiêm nhường bình dị. Ngài yêu thích những trái tim nồng nàn yêu thương luôn biết đón nhận thánh ý Chúa.
Ơn Chúa gọi là một mầu nhiệm con người không thể hiểu thấu. Chính vì thế mà chúng ta nghe người ta diễn tả về ơn của Chúa bằng một cụm từ thật gọn: “Tất cả là hồng ân."
4. Đất trời nối với nhau
Thấy thái độ cầu nguyện sốt sắng của vị giáo sư toán nổi tiếng Blaise Pascal trước Thánh Thể, một sinh viên đã hỏi ông: “Làm thế nào mà một nhà toán học vĩ đại như giáo sư lại có thể tin và cầu nguyện khiêm nhường như vậy được”? Mỉm cười, vị giáo sư ôn tồn: “Này con, chẳng có ai là vĩ đại cả, và con người chỉ trở nên vĩ đại khi cầu nguyện với Thiên Chúa, vị Chúa tể trời đất mà thôi."
Quả vậy, cầu nguyện là chuyện trò, là kết hợp với Thiên Chúa, và người cầu nguyện đi vào mối tương giao thân tình với Thiên Chúa. Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay đã cho chúng ta một tấm gương sáng về cầu nguyện: “Ngài đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa”
5. Sự lựa chọn chẳng giống ai.
Đang cần một thư ký mới, giám đốc một doanh nghiệp định thẩm vấn những người xin việc qua một nhà tâm lý. Ba cô gái được phỏng vấn.
Nhà tâm lý hỏi:
- 2 với 2 là mấy?
Cô thứ nhất trả lời cách chắc chắn: 4.
Cô thứ hai: có thể là 22.
Cô thứ ba: có thể là 22 và có thể là 4.
Khi các cô ra về, nhà tâm lý quay sang giám đốc và nói:
- Đó là những biểu hiện tâm lý. Cô thứ nhất nói điều hiển nhiên. Cô thứ hai nghi ngờ. Cô thứ ba có cả hai: ông sẽ chọn cô nào?
Giám đốc không ngập ngừng:
- Tôi sẽ chọn cô có mái tóc vàng với cặp mắt xanh.
Vâng! Việc Chúa tuyển chọn cũng như thế! Chẳng giống một kiểu nào ở trần gian.
Chính vì thế mà chúng ta thường nghe người ta diễn tả về ơn của Chúa bằng một cụm từ thật vắn gọn: “Tất cả là một hồng ân."
6. Thứ nhất là cầu nguyện
Silouanne là một đan sĩ già đáng kính, sống đơn sơ thánh thiện. Suốt nhiều năm thầy coi sóc cơ xưởng cho tu viện. Trong xưởng có một số thanh niên nghèo từ miền quê lên làm việc để kiếm tiền giúp gia đình. Một hôm các tu sĩ hỏi Ngài: “Thưa thầy, làm sao thầy có thể bảo bọn thợ kia làm việc chăm chỉ đến thế mà không cần canh chừng họ, trong khi chúng con không rời mắt khỏi họ, mà họ vẫn lừa được chúng con?” Thầy trả lời: “Tôi cũng không rõ, chỉ biết rằng mỗi sáng tôi đến xưởng và luôn cầu nguyện cho họ, tôi đến với họ bằng quả tim yêu thương. Khi bước vào xưởng, tôi phân công cho họ rồi ra về với quyết định sẽ cầu nguyện cho họ trong suốt cả ngày.”
Mời Bạn: Dù tất bật với việc rao giảng và chữa lành bệnh tật, Đức Giê-su luôn dành cho mình một thời gian cầu nguyện riêng với Đức Chúa Cha mọi lúc và mọi nơi. Chúng ta cũng được mời gọi sống cầu nguyện mỗi ngày, nhờ đó chúng ta có thể biết được điều Chúa muốn trên cuộc đời của mình và có được sức mạnh cho các hoạt động đông đồ. “Thứ nhất cầu nguyện, thứ hai hy sinh, thứ ba mới đến hoạt động” (ĐHV.119)
7. Hai nhịp đập của trái tim tông đồ
Trong cơ thể con người có một bộ phận hoạt động liên lỉ từ khi thụ thai cho tới khi lìa đời, đó là trái tim. Dẻo dai như vậy, nhưng để vận chuyển máu đi khắp cơ thể, hoạt động của nó thật đơn giản chỉ có hai nhịp: bóp vào và mở ra. Các sách Tin Mừng cho biết cuộc sống của Chúa Giêsu cũng diễn ra trong hai nhịp như vậy: cầu nguyện và hoạt động; đan cử một ví dụ: Ngài đã cầu nguyện suốt đêm trước khi chọn 12 Tông Đồ.
Và khi chọn các ông, Chúa Giêsu muốn họ chu toàn một cuộc sống gồm hai nhịp: ở lại với Chúa vàø ra đi loan báo Tin Mừng. Các động từ “ở lại”, “ở trong,” “đi theo” được các thánh sử dùng nhiều lần để diễn tả mối hiệp thông phải có của các Tông Đồ đối với Chúa Giêsu như mối thông hiệp Ngài có với Chúa Cha, Đấng đã sai Ngài, sự hiệp thông cần thiết đến mức trở nên ưu tiên trong các hoạt động của Ngài. Mặt khác, “tông đồ” nghĩa là “người được sai đi”, tham dự vào sứ mạng cứu độ của Chúa Giêsu.
Ở lại với Chúa và ra đi loan báo Tin Mừng là hai nhịp của trái tim Tông Đồ, cần thiết và không thể tách rời nhau.
Kiểm tra lại đời sống tông đồ của bạn. Đời sống tông đồ của bạn vẫn đều đặn hai nhịp đập đấy chứ?
Bạn có cho là tốn giờ vô ích khi dành thời giờ cầu nguyện trước khi làm một công tác tông đồ không?
8. Hồng ân thiên triệu
Trong dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, giữa biết bao câu chuyện truyền kỳ về triều đại nhà Lý, hẳn nhiều người cũng nhớ lại mối tình lãng mạn về cô thôn nữ hái dâu kia lọt mắt xanh một người mà cô đâu có ngờ đó chính là vua Lý Thánh Tông. Mối lương duyên đó đã đổi đời cô trở thành thái hậu Ỷ Lan, một nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đến vận mạng không những của Lý triều mà còn của cả đất nước Đại Việt nữa.
Cũng vậy, được Đức Giêsu chọn gọi còn là một hồng ân lớn lao gấp bội. Những con người không chút danh phận đã Ngài được chọn gọi đích danh để làm tông đồ và rồi “sẽ được ngự toà xét xử mười hai chi tộc Ítraen” (Lc 22,30). Mà đâu có phải do một cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên hay một sự lựa chọn tình cờ!!! Ngài đã cầu nguyện suốt đêm rồi mới chọn các ông tham gia vào sứ mạng cứu độ đã sắp sẵn cho các ông từ muôn thuở. Được Đức Giêsu chọn làm môn đệ Ngài không phải là hồng ân cao cả nhất hay sao?
9. Cầu nguyện luôn
Có đêm không chợp mắt được, thư ký của tổng thống Mỹ A. Lincoln nhìn sang phòng tổng thống, thấy ông quỳ gối cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, ngày xưa Cha đã nghe lời vua Salômon, thì hôm nay xin Cha cũng nghe lời con cầu khẩn: Nếu Cha giúp con, con sẽ đủ sức mạnh và khôn ngoan để lãnh đạo dân tộc này… Con yếu đuối và đầy tội lỗi, xin Cha hãy nghe lời con van xin.” Lịch sử Hoa Kỳ xếp ông là một trong những tổng thống xuất sắc nhất của nước này.
Thánh Luca cho ta biết trước khi có những quyết định quan trọng, Đức Giêsu đều cầu nguyện lâu giờ. Chẳng hạn, Ngài cầu nguyện 40 đêm ngày trước khi xuất hiện công khai; cầu nguyện suốt đêm cùng Cha trước khi chọn nhóm Mười Hai, cầu nguyện suốt đêm trên núi Biến Hình trước khi đi về Giêrusalem. Ngài không quyết định điều gì quan trọng nếu trước đó không tham khảo ý Cha.
THỨ TƯ - PHÚC THẬT VÀ KHỐN THAY
Lời Chúa: Lc 6, 20-26
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn các môn đệ và nói:
"Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ các ngươi như kẻ bất lương, ngày ấy các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối xử với các tiên tri y như thế.
"Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được no nê đầy đủ, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả."
TRUYỆN KỂ
1. Phúc cho anh em là những người nghèo
Một học sinh nghèo trả lại chiếc bóp lượm được; một giáo viên kiên trì theo đuổi nghề giáo; một cán bộ về hưu trong cảnh thanh bạch; một bạn nữ bỏ chỗ làm có thu nhập cao... ; một nhân viên từ chối những đồng tiền hối lộ.
Giữa cuộc sống khó khăn, vẫn có bao người không bị mê hoặc bởi bạc tiền. Họ chọn sống trong cảnh nghèo, lam lũ hơn, nhưng vui hơn và thanh thản hơn.
Vẫn có bao người nếm được mối phúc của Tin Mừng: “Phúc cho anh em là những người nghèo khó, Vì Nước Trời là của anh em."
2. Hạnh phúc có Chúa
Khi hoàng đế Napoléon của Pháp, người hùng chinh phục cả Âu châu, bị đày sang đảo Sainte Hélène, người viết tiểu sử của ông vẫn theo ông sát cánh. Đối với anh chàng viết tiểu sử này, mỗi chi tiết trong cuộc đời của Napoléon đều đáng ghi nhớ, không một biến cố nào là nhỏ cả và không ngày nào là không được lưu ý.
Một hôm, biết rằng ngày tận cùng của Napoléon sắp đến, chọn một giây phút Napoléon cảm thấy thoải mái nhất, người viết tiểu sử hỏi hoàng đế: “Thưa ngài, xin ngài cho biết trong suốt cuộc đời của Ngài, ngày nào là ngày hạnh phúc nhất?" Napoléon không trả lời ngay, quay đầu ra cửa sổ, nhìn biển xanh thăm thẳm phía xa một hồi, đoạn thở dài và quay lại chậm rãi nói với người viết tiểu sử của ông: “Tôi nhớ, tôi nhớ rất rõ, ngày hạnh phúc nhất trong đời của tôi đã xảy ra cách đây lâu lắm rồi, khi tôi còn bé, đó là ngày tôi rước lễ lần đầu."
Trước kinh nghiệm của Napoléon, chúng ta nhìn thấy mặc dù có danh vọng, giàu sang và tình yêu đến tuyệt đỉnh cũng không mang lại hạnh phúc đích thực cho con người, nếu vắng bóng Thiên Chúa.
3. Hạnh phúc ở đâu
Ermann Coen được mệnh danh là thánh Augustinô của thời đại chúng ta. Ngài là một người Do thái rất giàu có. Thời trai trẻ, ngài chỉ biết ăn chơi và chạy theo thế gian. Sự nhàm chán cứ đè nặng trên vai ngài. Ngày kia, ngài từ chối tất cả và xin vào tu viện. Trong bài giảng Mùa vọng tại Đền thờ Đức Bà ở Paris, ngài nói:
Tôi đã đi khắp cả mặt đất. Tôi đã yêu thế gian. Tôi đã biết thế giới và tôi đã học được một điều không có hạnh phúc ở trên thế gian này. Tôi đã tìm nó ở những nơi tôi tưởng có nó: ở những nụ cười, ở những cuộc giải trí, ở những ngày lễ, ở vàng bạc, ở sắc đẹp... Ôi! lạy Chúa, những điều con mơ ước ấy con đã tìm ở đâu? Và con đã chỉ tìm được nó trong Chúa và tình yêu Chúa."
4. Hạnh phúc của dân làng Aman
Không có dấu hiệu bên ngoài nào chứng tỏ dân làng Aman giàu có. Nhưng niềm vui tươi nở trên mặt, chứng tỏ cái nghèo vật chất không cản họ sống hạnh phúc thực sự.
Phải, tất cả mọi người trong làng đánh cá Aman này đều sống trong yên vui.
Nhưng rồi một ngày kia, hai anh em đánh cá trong làng là Sôpôt và Sôpa lưới lên một thùng thật nặng. Khi thuyền về đến bờ, họ mở thùng ra và rất đỗi ngạc nhiên, khi thấy thùng chứa đầy những viên ngọc quí. Hai anh em không biết làm gì với kho tàng, bèn đem nhau đến hỏi ý kiến nhà hiền triết Akian sống gần bên. Sôpốt hỏi:
- Thưa ngài, chúng tôi phải làm gì với những hạt ngọc này? Số lượng đủ để phân phát cho dân trong làng chúng tôi, mỗi người một hột và như thế mỗi người chúng tôi sẽ trở thành giàu có.
Nghe thế, nhà hiền triết trả lời cách khô khan:
- Hãy nên đổ lại xuống biển.
5. Đời là bể khổ
Vua Abder Rahman đệ tam của nước Tây Ban Nha thuở xưa là một người nổi tiếng thông thái, đã thâu tóm được rất nhiều quyền lực trong tay của mình, đã biến đất nước Tây Ban Nha thành một trung tâm khoa học của Âu châu vào thế kỷ thứ 10. Giỏi như thế, tài như vậy, mà vào những ngày cuối đời đã phải thốt lên rằng:
- Ta đã ngồi trên ngai vàng 50 năm, đã trải qua nhiều kinh nghiệm chiến thắng và hòa bình, được thần dân mến phục, kẻ thù sợ hãi, và đồng minh kính nể. Danh lợi, quyền quí và tất cả các thú vui trên trần gian ta đều có cả. Nhưng khi ngồi tính thật kỹ số ngày ta được hoàn toàn hạnh phúc, thì con số đó quá ít ỏi, chỉ vỏn vẹn có 14 ngày.
Làm vua một nước lớn, có quyền thế, danh vọng, giàu sang trong tay suốt 50 năm, tức là 18.250 ngày, vậy mà chỉ hưởng được có 14 ngày hạnh phúc! Sao mà xót xa quá!
6. Quyền được hạnh phúc
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã không cho chúng ta biết địa chỉ của hạnh phúc, nhưng Chúa chỉ cho con người con đường để có thể có hạnh phúc.
Đây là lời của mẹ Têrêsa: “Chúng ta có quyền được hạnh phúc và bình an. Chúng ta được dựng nên vì điều này, được sinh ra để hạnh phúc và chúng ta chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc thật và bình an thật khi trong cuộc tình với Thiên Chúa: có niềm vui khi yêu thương Thiên Chúa, có hạnh phúc lớn lao khi yêu thương Ngài. Nhiều người nghĩ, nhất là ở Tây Phương, là tiền của sẽ mang lại hạnh phúc. Tôi nghĩ khi giàu sang bạn khó có hạnh phúc hơn vì bạn khó có thể tìm thấy Thiên Chúa: bạn có quá nhiều điều để lo lắng."
Mẹ nói tiếp: “Chúng ta không cần tìm kiếm hạnh phúc: nếu chúng ta yêu thương người khác chúng ta sẽ được hạnh phúc. Ðó là quà tặng của Thiên Chúa."
7. Nụ cười của Chúa
Lạy Chúa Giêsu, Đọc trong Tin Mừng, chúng con chẳng thấy khi nào Chúa cười, nhưng chúng con tin Chúa vẫn cười khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa. Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân. Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ Emmau khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nụ cười của Chúa luôn hòa với niềm vui của người được lành bệnh.
Xin dạy chúng con biết tươi cười, cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con. Xin cho chúng con biết mến yêu cuộc sống, dù không phải tất cả đều màu hồng.
Chúng con luôn có lý do để lo âu, chán nản, nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con.
Ước gì chúng con cảm thấy hạnh phúc, vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương và được sai đi thông truyền tình thương ấy. Amen.
8. Nhận biết mối phúc của người nghèo
Vào dịp Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới được tổ chức tại Ý, có trên hai triệu bạn trẻ khắp nơi trên thế giới tụ về, đều một trái tim, một lòng mến. Trước hấp lực này, ông Antonio Mancuso mới 34 tuổi đang giữ chức Thị trưởng thành phố Ficarra. Phải nói ông là một người tài năng và đầy hứa hẹn vinh quang trong chức vụ. Thế mà ông đã từ bỏ xin đi tu.
Rõ ràng ông đã nhận ra giá trị mối phúc nghèo được Đức Giêsu đề cao trong Tin Mừng hôm nay.
9. Nô lệ cho tiền của
Một người phụ nữ sống độc thân, bà sống bằng việc nhặt rau người ta bỏ lại sau buổi chợ, đưa về làm dưa bán. Ngày nào bà cũng bận rộn vì đợi chợ tan, bà lượm lặt rau đưa về nhà, rồi bà lựa ra từng loại mãi đến nửa đêm mới xong việc.
Sáng sớm khi trời còn tối, bà đã gánh hàng ra chợ bán, nên không còn giờ đi dự Lễ, cùng lắm miễn cưỡng đi Lễ Chúa nhật vì sợ tội. Bà cứ sống như thế trong suốt 40 năm, tích góp mua được một số vàng cất giấu. Khi chôn vàng ở đâu, bà đều ghi vào quyển sổ riêng để nhớ.
Đêm nọ, sau khi đã dọn hàng xong, bà lấy quyển sổ ra xem tài sản mình được bao nhiêu và để ở những chỗ nào, bà lấy làm đắc tâm vì có một tài sản lớn. Quá buồn ngủ, bà thiếp đi, để rơi quyển sổ xuống đất.
Đêm ấy thần chết đến lôi bà ra khỏi thế gian, không một ai hay biết. Vài ngày sau khu xóm ai cũng ngửi thấy mùi hôi thối, bảo nhau chạy đến xem chuyện gì, thì thấy cửa nhà bà đã bị cạy, vào nhà ai cũng thấy đồ đạc đã có người thu dọn từ lúc nào, và bốn chân giường đã có ai đào bới!
Người ta báo cho chính quyền. Vì xác bà đã trương thối, nên không được đưa vào Nhà Thờ vì quá nặng mùi, phải vội đem đi thiêu. Chẳng có ai đi theo quan tài, chỉ có con chó còn trung thành với chủ. Thời gian sau, người cháu biết tin bà mất, anh ta đến nói với mọi người rằng: “Bác tôi có một quyển sổ thường ghi tài sản và những nơi chôn giấu vào đó!” Lúc ấy người ta mới hiểu kẻ cậy cửa lẻn vào nhà trước đã lượm được quyển sổ ghi tàn sản của bà chôn giấu ở đâu, nó đã phỗng mất!
Đúng là “ki cóp cho cọp nó tha!” Vì thế thánh Phaolô dạy: “Chúng ta đã không đưa gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được. Nếu có cơm ăn áo mặc, hãy lấy thế làm đủ,còn những kẻ muốn làm giàu thì sa chước cám dỗ, sa vào cạm bẫy và nhiều ước muốn ngu xuẩn độc hại” (1Tm 6,7-9).
10. Nên giống Chúa Kitô
Một phụ nữ trẻ mua một chiếc bình đẹp và đặt lên bàn trong phòng. Chiếc bình khiến bà ta nhận ra căn phòng mới xấu xí làm sao. Vì vậy bà ta lau chùi và sơn sửa nó lại. Kế đến bà ta chùi sạch cửa và gắn rèm mới. Cuối cùng, bà đánh sáp nền nhà và trải thảm xuống. Dần dà bà cố biến căn phòng thành xinh đẹp như chiếc bình. Thánh Phaolô cũng thúc đẩy tín hữu Côlôsê biến tâm hồn họ nên đẹp đẽ, như Chúa Kitô, Đấng cư ngụ trong họ.
Tôi có thể làm gì để biến căn phòng tâm hồn tôi nên giống Chúa Kitô. Đấng cư ngụ trong đó?
Sự xấu xa tìm được nơi trú ẩn tuyệt vời nhất trong cái đẹp bị trù dập và cái xấu được đăng quang (Calvin Miller).
11. Thời gian chẳng có nhiều
Buddy Holly trở nên nổi tiếng vào thập niên 1950. Năm 19 tuổi, Texan, ngôi sao nhạc rock đầu tiên đã viết nhạc, chơi nhạc và hát nhạc do anh sáng tác. Trong sự nghiệp kéo dài khoảng ba năm, anh đã viết 45 bài hát, và rồi một tai nạn máy bay đã đột ngột kết thúc cuộc đời tươi trẻ của anh. Khi Buddy chết, sáu bài hát của anh được kể vào số những bài hát chạy nhất. Tác giả Albert Cyicki nói về nhạc sĩ trẻ thiên tài này như sau: "Nếu Buddy còn sống đến nay, có lẽ anh sẽ nói với chúng ta điều mà Thánh Phaolô nói về tín hữu Corinto trong bài đọc hôm nay: "Thời gian chẳng còn bao lâu"
Bằng cách nào tôi thể hiện tốt hơn thời giờ quý báu Thiên Chúa cho tôi mượn?
Khi bàn tay giá lạnh của Ngài đặt trên bạn, tước đi những gì bạn đầu tư, suy đoán và tiền bạc của bạn, và cùng với Ngài, bạn sẽ đi vào cuộc sống vĩnh cửu. Bạn sẽ chẳng phải quá bận rộn khi đi vào cái chết (A.E. Kittridge).
THỨ NĂM -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
THỨ SÁU -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
THỨ BẢY - NHÀ XÂY TRÊN ĐÁ: KHÔN NGOAN
Lời Chúa: Lc 6, 43-49
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu, và cũng không có cây nào xấu mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây. Người ta không hái trái vả nơi bụi gai, và người ta cũng không hái trái nho nơi cây dâu đất. Người tốt phát ra điều tốt từ kho tàng tốt của lòng mình, và kẻ xấu phát ra điều xấu từ kho tàng xấu của nó, vì lòng đầy thì miệng mới nói ra.
Tại sao các con gọi Thầy: 'Lạy Chúa, lạy Chúa', mà các con không thi hành điều Thầy dạy bảo? Ai đến cùng Thầy, thì nghe lời Thầy và đem ra thực hành. Thầy sẽ chỉ cho các con biết người ấy giống ai. Người ấy giống như người xây nhà: ông ta đào sâu và đặt nền móng trên đá. Khi có trận lụt, dù nước ùa vào nhà, cũng không làm cho nó lay chuyển, vì nhà đó được đặt nền trên đá. Trái lại, kẻ nghe mà không đem ra thực hành, thì giống như người xây nhà ngay trên mặt đất mà không có nền móng. Khi sóng nước ùa vào nhà, nó liền sụp đổ, và nhà đó bị hư hại nặng nề."
TRUYỆN KỂ
1. Căn Nhà Ðức Tin
Một người giàu có nọ muốn thưởng cho người quản lý của mình. Ông cho biết ông sắp đi xa và giao cho người quản lý đứng ra xây cho một căn nhà sang trọng, với những vật liệu đắt giá và những nhân công tài giỏi nhất. Người quản lý xem đây là cơ hội để làm giàu: ông tính toán từng đồng trong việc mua sắm vật liệu cũng như chỉ mướn những thợ xoàng nhất với giá rẻ mạt. Dĩ nhiên, căn nhà cũng được hoàn thành một cách tương đối tốt đẹp.
Khi người giàu có trở về, người quản lý đem tất cả chìa khóa của căn nhà đến cho ông và báo cáo đã làm đúng như chỉ thị của ông. Ông chủ hài lòng, khen người quản lý và thưởng cho ông căn nhà đó. Trong những năm kế tiếp, khi phải chi tiền để tu sửa căn nhà, người quản lý không ngừng hối tiếc: giả như tôi biết trước, đây căn nhà ông chủ tặng cho tôi, thì tôi đã không xây cất nó một cách xoàng xĩnh như thế.
2. Triệt để thi hành luật pháp.
Vào khoảng giữa thế kỷ 19, các dân tộc thuộc vùng núi Caucase ở phía nam nước Nga, được cai trị bởi một quốc vương Hồi giáo nổi tiếng là thanh liêm chính trực. Ưu tiên hàng đầu trong việc chấn hưng đất nước của ông là quét sạch mọi tham nhũng hối lộ.
Ông ban hành một sắc lệnh, theo đó thì tất cả những ai bị bắt quả tang phạm tội tham nhũng và hối lộ sẽ bị phạt đúng 50 roi trước mặt công chúng.
Điều không may xẩy ra cho ông, là ngươi đầu tiên bị bắt quả tang phạm tội lại chính là mẹ ông. Sự kiện này làm cho ông đau đớn vô cùng. Không có một luật trừ hay châm chước nào cho sắc lệnh mà chính ông đã ban hành.
Liên tiếp ba ngày liền nhà vua giam mình trong lều của mình. Sang ngày thứ tư ông xuất hiện trước công chúng cùng với thân mẫu. Ông ra lệnh cho hai binh sĩ trói tay mẹ ông và bắt đầu xứ lý theo qui luật.
Thế nhưng khi chiếc roi đầu tiên sắp quất xuống trên người mẹ thì nhà vua chạy đến bên cạnh mẹ. Ông mở trói cho bà. Rồi ra lệnh cho hai binh sĩ trói tay ông, lột áo ông ra và bắt đầu cuộc trừng phạt bằng roi. Đúng 50 roi đã quất xuống trên thân mình nhà vua.
Với thân thể rướm máu và khuôn mặt nhợt nhạt, nhà vua quay về phía dân chúng và nói:
- Bây giờ thì các ngươi có thể ra về. Luật đã được thi hành. Máu của vua các ngươi đã chảy ra để đền bù cho tội lỗi này.
Kể từ ngày đó, trong vương quốc người ta không còn bao giờ nghe đến tội tham nhũng, hối lộ nữa.
3. Môn đệ Chúa Kitô sống tình hiệp nhất
Vào ngày thứ sau 5-4-1985, 8000 đài phát thanh trên thế giới cùng cử lên bài hát: "Chúng ta là thế giới", với mục đích gây quỹ cứu trợ nạn nhân chết đói ở Ethiopi và thể hiện sự hiệp nhất của gia đình nhân loại, chứ không phải sự chia rẽ. Thánh Phaolô chắc hẳn đã tán thưởng cử chỉ của các nhạc sĩ và chương trình phát đĩa của thể giới. Bởi vì điều ngài nói về thân thế của Chúa Kitô trong bài đọc hôm nay rất thích hợp với gia đình nhân loại. Chúng ta là gia đình và chúng ta nên bắt đầu hành động như trong một gia đình.
Tại sao tôi được ban cho các tài năng? Điều gì ngăn cản tôi sử dụng tài năng theo đúng mục đích của nó?
Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau (1Cr 12,26).
4. Thùng rác của tâm hồn
Muốn biết người ta dùng gì trong nhà, cứ việc nhìn vào thùng rác của họ sẽ biết. Muốn biết xã hội như thế nào, cứ nhìn vào các hiện tượng trong xã hội sẽ rõ, vì như một nhạc sĩ nhận xét, “sản phẩm của xã hội văn hóa nào thì sinh ra con người ấy.” Như vậy, những hiện tượng xấu giữa xã hội này từ những “kho tàng xấu” trong lòng người mà ra.
Nhưng, Thiên Chúa tạo dựng nên chúng ta theo “hình ảnh của Thiên Chúa” mà! Vậy, tại sao có những “kho tàng xấu” ấy? Chúa Giê-su đã giải thích qua câu hỏi: “Tại sao anh em gọi Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa!, mà anh em không làm điều Thầy dạy?” Thì ra, một khi không làm những điều Chúa dạy, lòng dạ người ta sẽ trở thành “thùng rác” chứa đầy mọi thứ xấu xa, bẩn chật và tai ác; một khi không thực thi lời Chúa, thì thay vì trở thành cộng đoàn yêu thương, xã hội sẽ trở nên một đám đông “quỷ ở với người.”
Bạn làm gì để gia đình bạn thành tổ ấm yêu thương và là cộng đoàn chứng nhân giữa xã hội này? Lòng bạn thấm đầy lời Chúa dạy hay ngập tràn điều xấu? Bạn có để Chúa làm chủ đời bạn và gia đình của bạn không?
5. Chứng nhân quan trọng hơn giảng thuyết
Trong thông điệp Rao Giảng Tin Mừng, ban hành vào năm 1975, Ðức Cố Giáo Hoàng Phaolô VI đã trình bày giáo huấn của Giáo Hội về việc rao giảng Tin Mừng. Trong số 14 của thông điệp, ngài viết: "Rao giảng Tin Mừng là ân sủng và ơn gọi riêng của Giáo Hội, là bản sắc sâu xa của Giáo Hội. Giáo Hội hiện hữu là để rao giảng Tin Mừng, nghĩa là để rao truyền và giảng dạy để trở thành máng thông ân."
Như vậy, mục đích của rao giảng Tin Mừng là thay đổi tấm lòng của con người, việc công bố Tin Mừng phải được thực thi trước tiên bằng chứng từ của cuộc sống. Ðức Phaolô VI khẳng định: "Con người thời đại thích nghe các chứng nhân hơn là những thầy dạy, và nếu họ có nghe thầy dạy thì cũng bởi vì những thầy dạy này là các chứng nhân."
6. Làm chứng cho sự thật
Truyện thánh Pacôm kể rằng, khi còn ngoại đạo, đã đăng lính trong đạo binh Rôma. Ngày kia, các binh sĩ trong đơn vị của ngài, đã kiệt sức vì đói và khát sau khi đi bộ qua sa mạc dưới cái nóng chết người, thất thểu vào thành Thebes (Tê-bes) ở Ai Cập. Thấy cảnh tượng đó, có nhiều người chạy lại bên họ, cho họ ăn uống, cùng chăm sóc họ chu đáo, tận tình.
Pacôm ngạc nhiên hỏi những người tốt lành này là ai và được trả lời rằng: “Họ là các kitô hữu.” Ngài thốt lên: “Một tôn giáo dạy người ta cứu giúp những kẻ khốn khổ hoàn toàn xa lạ với mình là một tôn giáo chỉ có thể đến từ vị Chúa chân thật.”
Sau biến cố này, Pacôm, trở lại đạo Công giáo và trở thành một vị sáng lập các đan viện, sống cộng đoàn bác ái huynh đệ. Philatô đã từng hỏi: “Sự Thật là gì?” nhưng không thể hiểu được, còn Pacôm tin nhận Thiên Chúa là Sự Thật nhờ những người kitô hữu ở Thebes đã làm chứng bằng hành động bác ái.
Người kitô hữu được “thánh hiến trong sự thật” nên sống theo sự thật và làm chứng cho sự thật. Sự thật về Chúa Giêsu chỉ có thể được tỏ hiện qua cái chết tự hiến vì yêu thương trên thập giá: “Ông này quả thật là Con Thiên Chúa.” Noi gương Chúa Kitô, người kitô hữu không chỉ làm chứng nhân bằng việc tử đạo mà còn làm chứng cho sự thật bằng chứng từ bác ái nữa.
7. Hãy chiếu giải ánh sáng
Nơi nhiều đền thờ Ấn giáo người ta đặt những cái giá treo lồng đèn. Mỗi sáng, tín đồ cầm đèn dầu đi lễ. Khi tới đền thờ, họ đặt đèn của mình vào giá treo lồng đèn, nhờ đó ngôi đền sáng rực lên cách lung linh huyền ảo. Ngọn đèn soi đường cho từng cá nhân tín đồ giờ đây thành chùm đèn thắp sáng cho cả cộng đoàn.
Chúa Giê-su dạy chúng ta: Nếu ta đã được ánh sáng chân lý của Chúa soi sáng, đến lượt mình, chúng ta cũng phải cùng với anh chị em chiếu giãi ánh sáng đó ra để đẩy lùi bóng tối tội lỗi lầm lạc. Một đức tin không giãi sáng bằng đời sống chứng nhân thì chẳng khác nào “thắp đèn rồi lấy hũ che lại hay đem đặt dưới gầm gường”, sẽ không còn là ánh sáng nữa.
Các thánh đã thực hiện mệnh lệnh ‘chiếu giãi ánh sáng’ khi làm sáng lên một nét đẹp trong giáo huấn Tin Mừng, từ đó khai sáng nên những linh đạo, những con đường nên thánh: thánh Phan-xi-cô Át-xi-di cho thấy sự hấp dẫn của nếp sống khó nghèo; thánh Tê-rê-xa cho thấy nét đơn sơ đáng yêu của con đường thơ ấu thiêng liêng… Nét đẹp Tin Mừng nào hấp dẫn bạn để bạn toả sáng ra chung quanh bằng cuộc sống chứng nhân của mình?
8. Thêm lửa
Nhà văn Kazantzakis nói rằng: “Điều tôi quan tâm không phải là con người, mặt đất, bầu trời, mà là ngọn lửa thiêu đốt con người, mặt đất, bầu trời." Nếu vậy, ông nghĩ thế nào về hai môn đệ trên đường đi Em-mau? Hai môn đệ “hết lửa”! Một đội bóng “hết lửa” chỉ có từ thua đến thua to! Hai môn đệ “hết lửa” với Thầy, với công cuộc của Thầy, chỉ còn nước chót là đào tẩu về nhà!
Thế nhưng, khi được gặp Đức Ki-tô Phục Sinh thì mọi sự đổi khác. Họ được tiếp thêm “lửa” nhờ Lời và Thánh Thể của Ngài: “Dọc đường, khi Người nói chuyện… lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” Đầy “lửa” đến độ họ đứng dậy, vượt quãng đường 12km ngay trong đêm, để gặp các bạn làm chứng rằng mình đã gặp Thầy.
Bạn còn “lửa” không, “lửa” yêu Chúa, “lửa” say mê công cuộc cứu độ của Ngài, “lửa” yêu thương đồng loại, nhất là những người thân của bạn? Hay bạn “hết lửa” vì ích kỷ mải lo cho mình?
Để thêm “lửa” trong đời sống đạo, tôi sẽ trung thành với việc đọc Lời Chúa và nỗ lực sống Lời ấy mỗi ngày.
9. Cây tốt sinh quả tốt
Có những người tự xưng là danh y, thần y với những phương thuốc gia truyền, những dược liệu quý hiếm chữa bách bệnh. Nhiều người không ngại đường xa, không ngại tốn kém tuôn đến chữa trị. Thế nhưng chỉ đến khi tiền mất tật mang, mọi người mới vỡ lẽ họ là lang vườn, lang băm lừa đảo thiên hạ. Quả xấu sinh bởi cây xấu. Cây nào sinh quả ấy: đó là một định luật bất biến.
Chúa Giê-su cảnh báo chúng ta sự lừa đảo về thiêng liêng là nạn ngôn sứ giả mà thời nào cũng có. Họ mang dáng dấp là người của Thiên Chúa, họ tự nhận mình là sứ giả nói lời của Thiên Chúa. Họ hấp dẫn quần chúng và có nhiều người chạy theo. Chúa Giê-su dạy ta bí quyết để nhận biết ai là ngôn sứ giả đó. Hãy xem những hoa trái là đời sống và công việc họ làm. Cây xấu không thể sinh quả tốt, ngôn sứ giả sẽ bị lộ mặt nạ qua đời sống bất chính của họ. Hễ cây tốt thì sinh quả tốt, những môn đệ đích thực của Đức Giê-su hẳn sẽ sinh quả tốt qua đời sống công chính trước mặt Thiên Chúa và mọi người.
Sống trong một thế giới phẳng và đa nguyên, người môn đệ đích thực của Đức Giê-su phải tỉnh táo để nhận ra hoa quả nào là bắt nguồn từ Thần Khí: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín. Và quả xấu nào là bắt nguồn từ quỷ dữ: gian dối, tham lam, hận thù, bất hòa, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ,…
10. Dấu chứng đáng tin
Ngày 25/02/2006, việc phục vụ của các nữ tu Công giáo – cụ thể là các chị em tu hội Nữ Tử Bác Ái – tại trại phong Di Linh đã được xã hội tuyên dương qua việc trao tặng huân chương cho nữ tu Mai Thị Mậu.
Việc tuyên dương đó không chỉ có ý nghĩa công nhận sự hiện diện của các nữ tu, và xác nhận tính chất “tử tế” của công việc họ làm hằng ngày giữa những anh chị em bệnh phong. Họ đã âm thầm phục vụ như thế từ lâu vì họ được thôi thúc bởi tình yêu mãnh liệt đối với Chúa và tha nhân, cách riêng với những anh chị em bất hạnh nhất.
Họ đang lặp lại sự chọn lựa của Chúa Giê-su nơi cuộc đời mình: Cùng với Đức Giê-su “làm các việc của Thiên Chúa” để nếu như người đời chưa tin thì ít ra cũng cảm nhận được Ngài qua những “việc-của-Thiên-Chúa” đó.
Hẳn bạn đang tự hỏi đâu là tiêu chí xác định một việc là việc của Thiên Chúa. Gương sống của các nữ tu trên đây minh hoạ cho Lời Chúa và trả lời cho bạn câu hỏi đó: Tình yêu mãnh liệt đối với Chúa và tha nhân đến độ “hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên."
Bạn chỉ trở thành một chứng nhân đáng tin cậy khi bạn làm “việc-của-Thiên-Chúa” theo cũng một tiêu chí đó.
11. Một mùa bội thu
Trong “The Complete Disciple”, tạm dịch, “Thợ Lành Nghề”, Paul W. Powell mô tả một tình trạng khá buồn: “Nhiều nhà thờ nhắc tôi về một nhóm thợ ngồi xuống đứng lên trong kho nông cụ. Mỗi Chúa Nhật, họ đến nghiên cứu, mài cày, tra dầu vào máy; sau đó, đứng dậy, ra về. Chúa Nhật, họ trở lại, nghiên cứu, mài cày, tra dầu vào máy; sau đó, đứng dậy, ra về. Tuần này qua tuần khác, năm này qua năm khác, cũng ngần ấy việc! Không ai còn nhớ đến chuyện ra đồng. Vì thế, với họ, ‘một mùa bội thu’ là những gì thuộc về các giấc mơ!”
Hãy nhìn lại cuộc sống theo từng thập kỷ, từng năm và thậm chí, từng tháng; nhìn lại những vụ mùa ‘được’ nhất, ‘mất’ nhất! Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta một phương thức tối đơn giản, “Xem quả thì biết cây!”. Hãy lục lọi trong các quãng thời gian khác nhau đó, đâu là ‘mùa được’ khi Danh Chúa rạng sáng; đâu là ‘mùa mất’ khi Danh Ngài bị che khuất. Thực tế, có khi thập giá và khó khăn dồn dập lại là thời điểm ‘được mùa’; có khi xem ra thành công, nhưng thực chất, chúng ta ‘mất trắng!’
“Lạy Chúa, đừng để con sống ‘văn hoá nhàn rỗi’, suốt ngày đứng lên ngồi xuống, đi ra đi vào; cho con biết nghiên cứu, mài cày, tra dầu vào máy và ‘lái xe ra đồng’, hầu có thể có ‘một mùa bội thu’ đúng nghĩa!”, Amen.