22:53 EST Thứ bảy, 02/12/2023

Trang nhất » Chuyên mục » Suy niệm Lời Chúa

Lời Chúa tuần 26 thường niên _ gia vị cho bài giảng

Thứ bảy - 30/09/2023 05:01
 
LỜI CHÚA TUẦN 26 THƯỜNG NIÊN
GIA VỊ CHO BÀI GIẢNG
CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN - Năm A - Năm B - Năm C
NGÀY THƯỜNG Thứ Hai - Thứ Ba - Thứ Tư - Thứ Năm - Thứ Sáu - Thứ Bảy
NGOẠI LỊCH Lễ Các Thiên Thần Hộ Thủ - Lễ Đức Mẹ Mân Côi -


CNTN 26A - LÀM THEO Ý CHA

 
Lời Chúa: Mt 21, 226-32
 
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
 
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: "Các ông nghĩ sao? Người kia có hai người con. Ông đến với đứa con thứ nhất và bảo: "Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho cho cha!" Nó thưa lại rằng: "Con không đi." Nhưng sau nó hối hận và đi làm. Ông đến gặp đứa con thứ hai và cũng nói như vậy. Nó thưa lại rằng: "Thưa cha, vâng, con đi." Nhưng nó lại không đi. Ai trong hai người con đã làm theo ý cha mình?" Họ đáp: "Người con thứ nhất."
 
Chúa Giêsu bảo họ: "Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông. Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài.
 
Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài."
 

TRUYỆN KỂ
 
1. Thanh kiếm của Quý Tử
 
Năm xưa, Quí Tử đi sứ nước Tấn có mang thanh bảo kiếm, qua thăm vua nước Từ.
 
Vua nước Từ ngó hoài thanh kiếm ra dáng yêu thích lắm, lòng tuy muốn xin mà miệng chẳng tiện nói ra….
 
Qúi Tử vì còn phải đi sứ thượng quốc, tuy chưa tặng vua Từ thanh kiếm được, nhưng trong lòng đã thầm hứa cho, khi đi sứ xong!
 
Sau khi xong việc, về thăm vua nước Từ thì vua Từ đã mất!!! Quí Tử liền tháo thanh kiếm đưa cho sứ quân vua Từ. Các người hầu ngăn lại:
 
– Bảo kiếm này là Báu Vật của nước nhà, không phải là món quà có thể tặng được!!! Mong tướng quân suy xét kỹ việc này….
 
– Lần ghé trước đây, vua Từ xem kiếm của ta, tuy chưa nói ra, nhưng lòng dường như rất yêu thích. Ta vì còn phải đi sứ thượng quốc, chưa dâng được. Tuy vậy trong lòng ta đã hứa cho. Vua Từ nay đã mất, ta vẫn giữ lời hứa mình vì nếu không, ta đã tự dối tâm mình. Tiếc kiếm mà thất hứa, dối tâm… người liêm không bao giờ làm!!!
 
Nói xong, Quí Tử tháo thanh kiếm đưa cho sứ quân của Từ Vương!
 
Sứ quân nói: “Vua tôi không có dặn việc này, tôi thiệt không dám nhận kiếm.”
 
Quí Tử bèn treo kiếm vào cành cây ở mộ vua Từ, rồi đi.
 
Người nước Từ ai cũng khen Quí Tử đã không quên lời hứa, ngay cả với người đã mất!!
 
2. Bản án đánh đòn
 
Vào năm 1992, tại tiểu bang Georgia – Hoa Kỳ. Xảy ra một câu chuyện có thể gọi được là “cười ra nước mắt."
 
Một bà mẹ 73 tuổi bị chính đứa con trai của mình kiện vì bà không trả cho anh ta tiền công sửa chiếc xe tải của bà. Sau đó, bà mẹ đã đệ đơn tố cáo ngược lại con mình với lời đề nghị là anh ta phải bị đánh đòn vì lúc anh ta còn nhỏ bà đã không áp dụng câu tục ngữ: “Thương con cho roi cho vọt."
 
Vào ngày 6 tháng 7 năm 1992, anh thợ sửa xe ô tô tên là Kê-nêt Ar-gut đã đệ đơn tại tòa sơ thẩm để thưa mẹ anh và đòi tòa ra lệnh cho bà thanh toán hóa đơn 2,613 đô la tiền sửa xe mà bà đã từ chối không chịu trả cho anh.
 
Trả lời cho đơn người con trai kiện mình, bà An-sen Ar-gut đã viết như sau: “Nguyên cáo đã mắc nợ bị cáo 40 năm phục dịch của một bà mẹ, một người giữ em, một người giúp việc nhà, nấu ăn, giặt giũ, y tá, một nhà tâm lý để cố vấn, khuyên nhủ, an ủi, v.v… Tất cả những dịch vụ trên, nguyên cáo đã không trả tiền công bị cáo." Bà Ar-gut còn viết tiếp:
 
“Như một bà mẹ, nếu luật pháp cho phép, tôi sẽ công khai đánh đòn con tôi, những cú roi rất cần thiết cho nó mà tôi đã thất bại không cho nó lúc nó còn bé. Nếu pháp luật không cho phép mẹ đánh con thì xin tòa hãy cử một nhân viên ngành tư pháp đánh đòn để sửa trị con tôi."
 
Đó là nỗi đau của một bà mẹ bị con khước từ. Nó đã không còn nhận bà là mẹ. Nó đòi bà phải trả tiền như bao khách hàng khác. Chính trong nỗi đau đó, Bà mẹ Argus hối tiếc vì đã không dạy con từ nhỏ nên mới lãnh lấy hậu quả hôm nay.
 
3. Ngôn hành bất nhất
 
Vợ thầy Tăng Tử đi chợ. Con khóc, đòi đi theo. Mẹ bảo:
 
– Con ở nhà rồi mẹ về làm thịt lợn cho con ăn!
 
Lúc vợ về, thầy Tăng Tử đi bắt lợn làm thịt. Vợ nói:
 
– Tôi nói đùa nó đấy mà!
 
Thầy Tăng Tử bảo:
 
– Nói đùa thế nào? Đừng khinh trẻ thơ không biết gì. Cha mẹ làm gì nó thường hay bắt chước. Nay mình nói dối nó, chẳng là mình dạy nó nói dối ư?
 
Tăng Tử nói xong làm thịt lợn cho con ăn.
 
4. Nói và làm
 
Vào cuối thập niên 260 của thế kỷ trước, có một chính khách đã viết nhiều bài báo nói về “đổi mới tư duy”, Ông thường ký tên NVL. Nhiều người nghĩ đơn giãn đó là 3 chữ viết tắt tên của ông, (tên của ông nếu viết tắt thì đúng là 3 mẫu tự đó), như nhiều tác giả thường làm như vậy, nhưng khi được hỏi vì sao ông không ký tên trọn vẹn mà lại chỉ viết tắt, ông nói bút hiệu NVL của ông nó có nghĩa là “nói và làm."
 
Đọc những bài báo đó, không biết chúng có thay đổi được gì thực tế xã hội không, nhưng chúng phản ánh một xã hội mà nhiều người đang có trách nhiệm trực tiếp trong guồng máy xây dựng xã hội thời điểm đó đang lâm cơn bệnh “nói nhiều làm ít”, thậm chí “nói mà không làm”, và còn hơn thế nữa, “nói một đàng làm một nẻo."
 
“Nói nhiều làm ít” là thứ bệnh phóng đại, phô trương.
 
“Nói mà không làm” là thứ bệnh nói dốc, nói láo.
 
“Nói một đàng làm một nẻo” là thứ bệnh lường gạt, thủ đoạn, thâm độc.
 
Cách sống “nói và làm” kiểu đó sẽ đưa đến một xã hội phi đạo đức, vì đạo đức không thể cùng tồn tại với giả hình và bịp bợm.
 
Một con người chân chính bao giờ cũng coi trọng Việc làm hơn Lời nói. Bởi chỉ bằng những hành động thực tế mới chứng tỏ được mình suy nghĩ có đúng không, có ý chí thể hiện những suy nghĩ tâm huyết thành hành động thực tế hay không. Và chính điều đó cho biết anh là ai, là người có đáng tin cậy hay không. (…)
 
5. Lấy của ban ngày
 
Nước Tấn có kẻ hiếu lợi, một hôm ra chợ gặp cái gì cũng lấy. Anh ta nói rằng: “Cái này tôi ăn được, cái này tôi mặc được, cái này tôi tiêu được, cái này tôi dùng được ." Lấy rồi đem đi. Người ta theo đòi tiền. Anh ta nói:
 
“Lửa tham nó bốc lên mờ cả hai con mắt. Bao nhiêu hàng hóa trong chợ tôi cứ tưởng của tôi cả, không còn trông thấy gì nữa. Thôi, các ngươi cứ cho tôi, sau này tôi có giàu, tôi sẽ đem tiền trả lại."
 
Người coi chợ thấy càn dở, đánh cho mấy roi, bắt của ai phải trả lại cho người ấy. Cả chợ cười ồ. Anh ta mắng:
 
“Thế gian còn nhiều kẻ hiếu lợi hơn ta, thường dụng thiên phương, bách kế ngấm ngầm lấy của người. Ta đây tuy thế, song lấy giữa ban ngày so với những kẻ ấy thì lại chẳng hơn ư? Các ngươi cười ta là các ngươi chưa nghĩ kỹ!” (Long Môn Tử).
 
6. Ao ước của ĐTC Benedict 16
 
Ngày 15 tháng 9 năm 2011, nhà xuất bản Vatican, Giuseppe Costa đã tổ chức triển lãm 600 tác phẩm của Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, sau này là Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI.
 
Cuộc triển lãm được trình bầy cho Đức Thánh Cha tại Castel Gandolfo, nhưng cũng đã được mở ra cho các du khách tại Vatican và ngày 24 tháng 9 tại trụ sở của nhà xuất bản Herder tại Freiburg.
 
Trong dịp này, Đức Thánh Cha đã nói: “Tôi rất cảm động và khá ngạc nhiên được thấy số lượng các sách vở tôi đã viết. Hy vọng của tôi là những lời tôi viết trong đó không chỉ đến và đi, nhưng giúp cho các độc giả nam và nữ tìm được hướng đi của họ.”
 
7. Augustino và ý Chúa
 
Thánh Augustinô, sinh năm 534, tại Targas, xứ Algêrie, Phi Châu, trong một gia đình giàu có, nhưng thiếu đạo đức. Mẹ là bà thánh Mônica, một gương mẫu các bà mẹ công giáo về việc sống đạo và việc giáo dục con cái bằng đời sống và bằng cầu nguyện nữa…
 
Từ nhỏ, Augustinô có tư chất thông minh khác người, đã được theo học khoa hùng biện tại Carthage; nhưng tại đây ngài đã lây nhiễm các thói hư tật xấu ở đời. Lời dạy dổ của Mẹ, giáo lý đã học đuợc từ nhỏ, Augustinô đã bỏ ngoài tai. Augustinô hầu như đã mất đức tin, ngài còn theo lạc thuyết Manê nữa. Ngài hầu như đã trả lời không khi được Chúa gọi vào làm vuờn nho cho Chúa. Vì sống trong tội lỗi, tâm hồn của ngài luôn bị dày vò, không hề được sự bình an…
 
Sau đó ngài được mời sang Rôma để làm giáo sư khoa hùng biện. Đây cũng là ý Chúa, nhờ đó ngài đuợc giao tiếp thường xuyên với thánh Giám mục Ambrosiô, và cũng từ đây ngài đã trở lại với niềm tin và đã chấp nhận đi vào làm trong vườn nho của Chúa, mặc dù một khoảng thời gian dài ngài đã từ chối lời mời gọi của Chúa.
 
26. Theo Chúa hết lòng
 
Anh Rmah Nguc, là người làng Plei-ia-ba, huyện Đức Cơ, bộ tộc Jrai, sinh năm 1966, được rửa tội từ nhỏ. Cha anh cũng là công giáo gốc, từng là người đi giúp đồng đạo thời Đức Cha Kim Paul Seizt…
 
Sau năm 1975, tôn giáo và ngay cả những nét văn hóa như tiếng coòng chiêng, cũng bị kết tội là mê tín. Cha anh vì quá sợ hải nên… bỏ chuyện đạo qua một bên. Rmah Nguc lớn lên và hòa nhập nhanh vào đời sống xã hội. Các người lãnh đạo chú ý đến vì sự thông minh và hoạt bát của anh. Học xong lớp 9, R. Nguc được đưa đi học sơ cấp sư phạm để về làm hiệu truởng trường tiểu học của cả huyện. Chỉ mới 20 tuổi, anh đã được kết nạp đảng. Một vị lãnh đạo cho biết: “Thằng R. Nguc đã được đưa vào kế hoạch đào tạo để làm bí thư đảng ủy xã." Là hiệu trưởng, anh đã sống hết mình cho học sinh.
 
Năm 1990, cha anh mất, anh quyết tâm trở lại với Chúa. Dần dần cấp lãnh đạo biết anh là người công giáo, họ gọi anh lên cảnh cáo, đe dọa đủ cách, nhưng anh trả lời: “tôi theo đạo từ nhỏ, nên tôi phải giữ.” Thế là tự nhiên anh bị cho nghỉ việc, mất cả lương bổng, kể cả thâm niên…Anh bị người ta đuổi việc. Lúc đầu dĩ nhiên anh phải buồn…nhưng nhờ vậy, anh có nhiều giờ học giáo lý, đọc Thánh kinh… Ngày hôm nay (2002), nhà anh là là nơi giáo dân Jrai lui tới cầu nguyện. Có những buổi học giáo lý dành cho các ami (các bà mẹ), các ama (ông bố) và Lắc-ai (ca đoàn)…
 
Rõ ràng anh Rmah Nguc, không vâng giữ lời Chúa chỉ bằng môi miệng; anh còn đem nó ra thực hành nữa…
 
9. Thức tỉnh trở về
 
Trên đường tu đức, ai cũng ham đọc sách của Thomas Merton. Cha đã khai sáng một lối suy tư mới để cân bằng, cảnh tỉnh và thăng tiến đời nội tâm. Trong tác phẩm “Ngọn núi bẩy tầng” (The Seven Story Mountian) Thomas Merton đã diễn tả ơn trở về đặc biệt của chính bản thân.
 
Lúc 20 tuổi, Merton gia nhập đảng cộng sản và du lịch Âu châu. “Bỗng một đêm ở Paris, tôi nhận ra cái tình trạng tồi tệ, khốn quẫn và man dại của mình trong cơn ác mộng. Tôi bị quỉ dữ săn đuổi và cố chạy trốn! Càng chạy càng mắc và càng lâm nguy. Thức giấc trong kinh hoàng và ướt đẵm, tôi quì xuống khẩn cầu. Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi tha thiết nguyện xin. Những mong Thiên Chúa giải cứu khỏi sự dữ đang kìm kẹp và đe doạ tôi. Thiên Chúa đã ra tay thị uy và tạo cơ hội cho tôi trở về." Khi 23 tuổi, Merton đã tin nhân và suy phục Chúa. Anh làm phóng viên cho tờ Nữu Ước Thời Báo. Và lúc tròn 26, anh giã từ nghề nghiệp, bố thí gia sản, rồi dồn những đồ tùy thân vào một túi vải, gõ cửa xin gia nhập dòng Trapist tại Kentuckty. Chúa đã chuyển hóa một thanh niên hoang đàng thành một thầy dòng khổ tu. Thật lạ lùng!
 
Không hài lòng với bản thân, nổi loạn với cha mẹ, chống cưỡng quyền bính, và tranh đấu cho công bằng xã hội, chúng ta thường có hai phản ứng tương khắc. Một là dấn thân xây dựng cơ cấu và thế hệ mới, cải tiến gia đình, học đường và xã hội. Đây là con đường đoan chính và thánh thiện mà lịch sử Giáo Hội còn ghi đậm những nết son đặc thù của một Phaolô, Augustinô, Inhaxiô, Phanxicô. Hai là bất mãn, chống đối, làm loạn, thủ tiêu và trả thù theo thuyết “thần học giải phóng." Thuyết này đã được phái vô thần áp dụng tuyệt mức. Họ cấy thù hận vào tâm não; dùng tra tấn, đàn áp và tù tội làm chính sách; lấy thủ tiêu, bỏ đói và tra tấn làm phương tiện. Kết quả là có nhiều tâm hồn thất vọng, chán chường.
 
Sống bất an và bất hạnh, Merton quyết tung cánh chim tìm về tổ ấm và ra khỏi ngõ cụt của văn hoá sự chết. Merton được cải tử hoàn sinh qua ba giai đoạn. Một là ý thức quá khứ lỗi lầm và hướng thiện. Hai là cương quyết thăng tiến và thay đổi. Ba là dấn thân sống lý tưởng và hành hiệp trượng nghĩa. Đây là ba chặng chuyển hướng quan trọng, phải theo đúng nếu muốn cải tử hoàn sinh. Merton, Phaolô, Mai Đệ Liên, Augustinô… đã thành công và trở thành những “tín hữu thật” theo quan niệm của Soren Kierkegaard “Chưa có một tín hữu thật sự trên đời, mà chỉ có tiến trình trở thành một tín hữu." Quả vậy tâm tình “ngại núi e sông” đang trói chặt chúng ta. Vì thế chúng ta còn tiếc xót đời tiện nghi, ấm cúng, hạnh phúc, chưa đeo nổi túi vải lên vai và vui bước lên đường.10. Hữu dũng vô mưa
 
Một lần nọ, người chủ ruộng dẫn con trâu đến mảnh đất để cày, con trâu và người chủ làm việc suốt buổi sáng. Đến trưa người chủ thả trâu cho nghỉ ngơi và ăn cỏ, còn người chủ cũng ăn uống lấy sức.
 
Con trâu đang nằm nhơi cỏ, thì bỗng đâu có con cọp xuất hiện làm cho trâu hốt hoảng, nhưng cọp trấn an trâu và nói: thân mi to lớn, với sức khoẻ phi thường, tại sao mi phải lệ thuộc con người yếu đuối và chịu sự điều khiển như thế?
 
Con trâu trả lời: con người tuy nhỏ bé, yếu đuối, nhưng họ có trí khôn, nên sức mạnh không làm gì được trí khôn của họ. Cọp mới hỏi trâu trí khôn là gì mà ghê thế? Trâu bảo cọp hãy đến hỏi con người.
 
Cọp mới đến gần con người xin cho xem trí khôn. Con người bảo là để quên ở nhà, anh bảo cọp chờ anh ta về nhà lấy cho nó xem. Nhưng anh ta chợt suy nghĩ và bảo cọp. Mi hãy để ta trói mi lại, chứ nhở khi về lấy trí khôn cho mi xem, mi sợ và bỏ trốn thì sao?
 
Cọp bị chạm tự ái, nên để cho người trói lại. Vừa trói xong, anh ta lấy một cây to đến bên cọp và đánh cho đến khi cọp không còn sức vùng vẫy nữa, anh ta bảo: trí khôn của ta đây nầy. Con trâu nhìn thấy thế và mỉm cười cho cọp.
 
10. Nghe và làm
 
Một tân linh mục giảng một bài thật hay. Chúa nhật kế tiếp, cộng đoàn tín hữu đông đảo chờ đợi nhưng họ ngạc nhiên khi vị linh mục lặp lại bài giảng Chúa nhật trước. Chúa nhật sau đó, ngài cũng lặp lại cùng một bài giảng. Khi tín hữu tỏ ý thắc mắc, ngài bảo họ: “Tôi lặp lại bài giảng cho đến khi thấy anh chị em thực hiện được một gì đó trong bài giảng.”
 
Cái gì ngăn cản tôi không quan tâm đến Lời Chúa?
 
Người ta không thể băng qua biển khi chỉ đứng nhìn mặt nước (R. Tagore).
 
11. Tuân theo ý Chúa
 
Có một ông công chức, khi về hưu, đã mua mấy mẫu đất ở miền quê để làm một thửa vườn rộng. Thế nhưng, ông thấy mình không thể đảm đương hết mọi công việc, nên ông đã đi thuê người giúp việc.
 
Đầu tiên, một chàng thanh niên tới và ông đã hỏi:
 
– Anh có biết gì về nghề làm vườn hay không?
 
Anh trả lời:
 
– Tôi có biết chút ít.
 
Ông ta chỉ dẫn cho anh:
 
– Anh hãy lấy những hạt giống này, ngâm vào nước âm ấm cho qua một đêm, rồi mới đem gieo trồng.
 
Thế nhưng anh đã phản đối và cho rằng đó không phải là một cách thức tốt.
 
Sáng hôm sau, một chàng thanh niên khác đến xin việc, ông ta cũng hỏi:
 
– Anh có biết gì về nghề làm vườn hay không?
 
Anh trả lời:
 
– Tôi không biết nhưng rất vui lòng được học.
 
Ông ta cũng chỉ cho anh cách ươm cây và anh đã vâng theo làm như vậy. Cuối cùng ông ta cắt nghĩa:
 
– Đây là giống bạch đàn không dễ gieo trồng. Nếu không ngâm vào nước ấm trong một đêm thì hạt sẽ khó mà nẩy mầm.
 
Và chàng thanh niên đã thú nhận:
 
– Tôi không biết lý do nhưng tôi nghĩ rằng ông có kinh nghiệm hơn tôi nên ông bảo sao thì tôi làm như vậy.
 
Từ câu chuyện trên chúng ta thấy: Một số người có quyền và có bổn phận bảo cho người khác điều phải làm. Chẳng hạn người cha trong dụ ngôn chúng ta vừa nghe, có quyền và có bổn phận đó. Còn hai người con của ông tiêu biểu cho chúng ta, là những người có bổn phận phải làm, phải thi hành, phải vâng theo.
 
12. Có và không
 
Một linh mục phó xứ quyết định mở khoá học Thánh Kinh vào mỗi buổi tối Chúa nhật. Sau thánh lễ 26 giờ sáng, ngài yêu cầu giáo dân ở lại để trình bày ý tưởng về nhóm học Thánh Kinh. Sau khi cắt nghĩa chương trình, ngài hỏi, “Quý ông bà anh chị em có nghĩ rằng chúng ta nên mở khoá học Thánh Kinh trong họ đạo vào mỗi tối Chúa nhật không?” Có tất cả 54 người giơ tay đồng ý, tán thành ý tưởng đạo đức này.
 
Sau đó, trở về nhà xứ, ngài trình bày với cha xứ về sự hưởng ứng nhiệt liệt của giáo dân đối với dự tính của ngài. Cha xứ đã lắng nghe, rồi nhẹ nhàng nói: “Có lẽ cha nên đặt lại câu hỏi."
 
Sáng Chúa nhật tuần sau, cũng sau thánh lễ, ngài xin giáo dân ý kiến, và đặt lại câu hỏi: “Có bao nhiêu người sẽ dự buổi học Thánh Kinh tối nay?” Thật tuyệt vọng, cha phó đã đếm được bốn người giơ tay.
 
13. Sức mạnh siêu phàm của một cô gái điếm
 
Một hôm nghe tin về một cô gái điếm tuy tội lỗi, nhưng lại có một quyền năng siêu phàm, vua Ashoka đã triệu vời cô ta tới và yêu cầu cô thi thố tài năng để có dịp tận mắt chứng kiến và biết rõ thực hư ra sao.
 
Trước mặt nhà vua cùng các quần thần, các đạo sĩ và đám đông dân chúng tụ tập bên bờ sông Hằng, cô gái điếm kia đã thi thố tài năng: cô có thể ra lệnh cho dòng sông đang cuồn cuộn chảy phải thay đổi chảy ngược lại, gây ra những tiếng động ầm ầm giống như long trời lở đất. Đang khi đo, các vị đạo sĩ tuy đã dày công tu luyện nhiều năm và rất am tường Phật pháp lại đành chịu bất lực trước nạn lụt hằng năm, nước sông dâng lên tràn bờ đê, gây ra cảnh lụt lội lớn lao, làm cho nhân dân dọc theo hai bên dòng sông ngày một lầm than đói khổ!
 
Nhà vua không thể tin đươc một cô gái điếm, thuộc hạng tiện dân và tội lỗi lại có sức mạnh siêu phàm như thế. Bấy giờ vua hỏi cô gái rằng: “Do đâu mà một kẻ tội lỗi ti tiện như ngươi lại có thể làm được việc lớn lao phi thường như thế?” Cô gái đáp:”Tâu Đức vua, đó là nhờ đức hạnh của tiện nữ!"
 
Đức vua lại cười khẩy và vặn hỏi:”Thế đức hạnh của ngươi ra sao?" Cô đáp: “Tâu đức vua, đức hạnh của tiên nữ chính là do cách cư xử công chính đối với mọi người. Khi tiếp chuyện với bất cứ ai, dù họ là bậc quân vương, quý tộc hay đám thường dân, tiện nữ đây cũng hết lòng tôn trọng và luôn đối xử vẹn tình trọn nghĩa. Tuyệt đối không dám khinh thường hoặc gian dối với bất cứ người nào cả!"
 
Như vậy, theo lời cô gái trong câu chuyện trên: Muốn có sức mạnh làm được những việc phi thường, thì người ta phải ăn ở công chính, nghĩa là đối xử công minh chính trực với mọi người. Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu đã nêu tên Gio-an Tẩy giả và đòi những ai muốn được ơn cứu độ phải tin ông Gio-an và đi theo đường công chính của ông như sau: “Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy. Còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy” (c 32).
 
14. Hối hận
 
Có một tâm sự như sau: Lúc tôi còn là một chàng thanh niên nhà nghèo từ miền quê lên thành phố học tập, mẹ tôi đã phải gồng gánh, chắt chiu từng đồng gửi cho tôi ăn học. Mỗi lần có dịp về thăm nhà, tôi thấy ngôi nhà ẩm thấp, nóng nảy ngày xưa vẫn không hề thay đổi. Trời tối nóng bức, mẹ tôi phải phe phẩy chiếc quạt nan cũ kỹ cả đêm. Tôi nói với mẹ: Tháng lương đầu tiên, con sẽ mua tặng mẹ cái quạt điện cho mát.
 
Thời gian trôi qua, tôi cũng đã có việc làm, nhưng dường như tôi đã quên hẳn lời hứa với mẹ về tháng lương đầu tiên. Cuộc sống ở thành phố cứ cuốn tôi vào với dòng chảy của nó, bạn bè ngày càng nhiều hơn, các bữa tiệc ngoại giao ngày càng thường xuyên hơn, có những bữa tiệc tiêu tốn đến vài triệu.
 
Rồi một ngày, nhận được tin mẹ mất, tôi vội vã trở về với mẹ. Vẫn ngôi nhà đơn sơ năm xưa, mẹ tôi nằm đó, trên gương mặt còn đậm nét khắc khổ. Buổi chiều hôm ấy, khi người ta đặt mẹ vào quan tài, những người phục vụ đã không quên bỏ vào quan tài của mẹ chiếc quạt nan cũ kỹ năm xưa. Nhìn thấy chiếc quạt, tim tôi thắt lại, giật mình nhớ lại lời hứa về tháng lương đầu tiên sẽ mua tặng mẹ chiếc quạt điện.
 
Tôi vô cùng hối hận vì đã không thực hiện được một lời hứa nhỏ bé dành cho mẹ. Kể từ đó, mỗi khi ngồi cạnh chiếc quạt điện tại văn phòng, tôi lại nhớ lời hứa năm xưa với mẹ mà lòng đau đớn.
 
15. Ai là người đắc đạo?
 
Tôi có người bạn thân, trí thức. Anh học giáo lý rất chăm chỉ nhiều năm. Tuy nhiên mỗi lần đề nghị anh trở lại đạo, chịu bí tích thanh tẩy (rửa tội) anh từ chối ngay. Gạn hỏi, anh kể cho tôi câu chuyện như sau:
 
Ở Tích Lan, có một nhà sư nổi tiếng. Thiện nam tín nữ đến nghe ông thuyết pháp rất đông. Chuyện đến tai nhà vua, vua cho vời sư ông tới giảng giải giáo lý nhà Phật cho bá quan văn võ. Chính vua cũng không vắng mặt buổi nào. Sau đó vì ban ngày bận việc triều đình nên nhà vua thường lẻn khỏi hoàng cung ban đêm để tìm nghe nhà sư thuyết giảng. Hai người đưa nhau lên mỏm núi cao ngồi.
 
Một hôm, khi đang nghe Phật pháp bỗng trông thấy hoàng cung bốc cháy. Nhà vua vẫn bình tĩnh ngồi nghe không tỏ vẻ quan tâm chút nào. Khi chấm dứt bài giáo lý, sư ông hỏi: “Lúc nãy hoàng cung cháy bệ hạ không lưu ý sao?” Nhà vua trả lời: “Cháy đền này, ta xây cái khác. Còn chuyện đạo pháp không như thế được."
 
Đêm hôm sau, hai người lại trông thấy ngôi chùa, nơi nhà sư tạm trú, bốc cháy. Nhà sư bồn chồn lo lắng đứng ngồi không yên. Đức vua hỏi duyên cớ làm sao? Sư ông trả lời: “Hạ thần còn để quên cái khố ở trong chùa.” Nhà vua đắc đạo, sư ông thì không. Đây là lý do tại sao tôi không dám vào đạo. Sợ rằng sau đó cũng như nhà sư thôi.
 
Nói xong anh bạn nhắm mắt, rùng mình. Tôi hiểu nỗi lo lắng của anh.
 
16. Lòng quảng đại phải cụ thể
 
Tại một giáo xứ nọ, cứ mỗi năm có một chủ đề sống. Chủ đề năm ấy là “Mau mắn quảng đại chia sẻ cho người nghèo." Vào cuối dịp tĩnh tâm đầu năm, Cha xứ muốn mỗi người nói lên quyết tâm của mình trong ngày đầu năm, Ngài hỏi:
 
– Ông Hai! Ông có sẵn sàng sống bác ái chia sẻ theo chủ đề của Giáo xứ không?
 
– Vâng! Con nhất trí ạ!
 
– Vậy, nếu ông có hai con bò, ông sẽ góp quỹ tặng cho người nghèo một con chứ?
 
Ông Hai hiên ngang trả lời trước Cha xứ và cộng đoàn:
 
– Đương nhiên rồi thưa Cha!
 
– Nếu ông có hai căn nhà, ông hứa dâng một căn nhé!
 
– Bảo đảm trăm phần trăm với Cha.
 
– Nếu ông có hai con gà, ông sẽ nhường lại cho người nghèo một con gà, phải không?
 
– Ồ, không được, thưa Cha.
 
Cha xứ ngạc nhiên hỏi:
 
– Sao vậy? Tôi không hiểu. Sao nãy giờ, ông luôn nói đồng ý mà bây giờ, ông lại nói không?
 
Ông Hai thành thực thú nhận:
 
– Những thứ trước, Cha hỏi, nhà con không có, còn gà, nhà con có nhiều ạ!
 
17. Tình yêu cốt ở việc làm
 
Thánh Têrêxa HĐGS nói: "Lòng yêu mến không cốt ở những tình cảm, nhưng cốt ở việc làm"
 
Một vị Giám mục kiểm tra khả năng của một nhóm ứng viên xin lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy. Ngài hỏi:
 
- Bằng vào dấu chỉ nào các người khác nhận ra các con là người Công giáo?
 
Không có tiếng trả lời. Rõ ràng không có ai ngờ một câu hỏi như thế. Vị Giám mục lập lại câu hỏi và ngài lập lại thêm một lần nữa, lần này ngài làm dấu thánh giá có ý mách nước cho các người dự tòng một câu trả lời đúng. Bất. chợt một ứng viên trả lời:
 
- Đó là "Tình yêu."
 
Vị Giám mục rất nhạc nhiên! Khi ngài sắp mở miệng nói "Sai ", ngài bỗng kịp thời ngậm miệng lại
 
126. Hối cải sinh kết quả tốt đẹp
 
Một thương gia trong một thị trấn nhỏ nọ có hai người con trai sinh đôi. Hai chàng trai cùng làm việc tại cửa hàng của cha mình. Khi ông qua đời, họ thay ông trông coi cửa hàng đó. Mọi việc đều êm đẹp cho đến một ngày kia, khi một tờ giấy bạc biến mất. Người em đã để tờ giấy bạc đó trên máy đếm tiền rồi đi ra ngoài với khách hàng. Khi anh quay lại, tờ giấy bạc đã biến mất. Người em hỏi người anh:
 
- Anh có thấy tờ giấy bạc đâu không?
 
- Không - người anh đáp.
 
Tuy thế. Người em vẫn không ngưng tìm kiếm và gạn hỏi.
 
- Anh không thể không đụng đến nó. Tờ giấy bạc không thể tự đứng dậy và chạy đi được! Chắc chắn anh phải thấy nó!
 
Sự buộc tội phảng phất trong giọng nói của người em. Căng thẳng bắt đầu tăng lên giữa hai anh em họ. Sự oán giận cũng theo đấy mà len vào. Không lâu sau một hố ngăn cách gay gắt và sâu thắm đã chia cách hai chàng trai trẻ. Họ không thèm nói với nhau một lời nào. Cuối cùng họ quyết định không làm chung với nhau và một bức tường ngăn cách đã được xây ngay giữa cửa hàng. Sự thù địch và oán giận cũng lớn lên tiếp theo 20 năm sau đó, lan đến cả gia đình của họ. Một ngày nọ, một người đàn ông đỗ xe ngay trước của hàng. Ông ta bước vào và hỏi người bán hàng:
 
- Anh đã ở đây bao lâu rồi?
 
Người bán hàng đáp rằng anh đã ở đây cả cuộc đời. Vị khách nói tiếp:
 
- Tôi phải nói với anh điều này. 20 năm trước tôi đang đi xe lửa và tạt vào thị trấn này. Lúc đó tôi đã không ăn gì suốt ba ngày. Khi tôi đến đây bằng cửa sau và thấy tờ giấy bạc trên máy tính tiền, tôi đã bỏ vào túi mình rồi ra ngoài. Những năm qua tôi không thể quên điều đó. Tôi biết nó không phải là món tiền lớn nhưng tôi phải quay lại đây và xin anh thứ lỗi.
 
Người đàn ông lạ mặt ngạc nhiên khi thấy những giọt nước mắt lăn trên má của người bán hàng trạc tuổi trung niên này.
 
- Ông có vui lòng sang cửa hàng bên và kể lại chuyện này cho người đàn ông trong cửa hàng đó được không? - anh ta đề nghị.
 
Rồi người đàn ông lạ càng ngạc nhiên hơn khi thấy hai người đàn ông trung niên, trông rất giống nhau, ôm nhau khóc ngay trước cửa hàng. Sau 20 năm, rạn nứt giữa họ đã được hàn gắn. Bức tường thù hận chia cắt hai anh em họ đã được đập bỏ. ( Loren Fischer )
 
Đó chúng con thấy sự hối cải đã đem lại kết quả đẹp đẽ như thế nào!
 
19. Phô trương
 
 Platon hồi ấy là người yêu nghệ thuật. Nhà ở của ông được trang trí bằng nhiều bức thảm qúi đẹp. Một hôm, DIOGENE, - người chủ trương sống màn trời chiếu đất, đầu đường xó chợ -, tới thăm Platon. Tới nơi, mặt đỏ gay, con mắt trợn trừng, ông ta vừa đạp thình thịch lên tấm thảm qúi của Platon, vừa nghiến răng nói:
 
 - Ta chà đạp dưới chân tính phô trương kiêu hãnh của nhà ngươi.
 
 Ông Platon bình tĩnh trả lới:
 
 - Phải, và với một sự phô trương kiêu hãnh sâu rộng hơn nhiều.
 
 Thì ra đời sống bên ngoài đầy quảng cáo của Diogène không đi đôi với đời sống bên trong. Nhà quân tử cũng mắc phải chứng bệnh phô trương như ai.
 
20. Nhà ái quốc Aristogiton.
 
 Aristogiton hồi ấy lúc thanh bình, là một nhà ái quốc thượng thặng. Thở ra lửa trận, nói ra sấm sét. Chàng lợi dụng mọi hoàn cảnh để cổ võ những đức tính anh hùng kiêu hùng của người chiến sĩ yêu nước. Nghe chàng nói, thính giả có ấn tượng như chàng đang tuyên chiến với tất cả các cường quốc trên thế giới.
 
 Nhưng đến khi phải thi hành lệnh quân dịch, người ta thấy chàng đột nhiên bước đi khập khiễng, tay chống gậy, chân thì băng bó, trông thảm não vô cùng.
 
 Biết rõ những bí ẩn của chàng, ông Photion trợn mắt nói:”Aristogiton đã làm một người què lại còn hèn nhát."
 
21. Lòng sám hối đi trước
 
Có hai phụ nữ đến gặp vị ẩn sĩ. Một người tự nhận mình tội lỗi nặng nề vì đã phản bội chồng, trái lại, người phụ nữ kia thì yên tâm thấy mình không phạm một tội nặng nào.
 
Sau khi nghe hai phụ nữ kể tâm trạng mình, vị ẩn sĩ nói với người thứ nhất: “Hỡi nữ tì của Thiên Chúa, con hãy ra ngoài tìm một tảng đá nặng và mang về đây cho ta”; với người thứ hai thì ông nói: “Phần con không phạm tội gì nặng, con hãy mang về một túi những hòn đá nhỏ thôi.”
 
Hai bà vâng lời ra đi, một lát sau họ trở lại. Người đầu khệ nệ bê một tảng đá nặng, còn người kia xách một túi những hòn đá nhỏ. Bấy giờ, vị ẩn sĩ mới bảo họ hãy đem tảng đá cũng như những hòn đá nhỏ đặt trở lại đúng chỗ mình đã thấy lúc nãy, rồi trở lại gặp ngài.
 
Người đầu dễ dàng đặt tảng đá vào chỗ cũ, còn người kia không sao nhớ nổi chỗ của từng hòn đá. Cả hai trở về và kể lại cho vị ẩn sĩ nghe việc làm của mình. Ông nói với người thứ nhất: “Con đặt được tảng đá vào chỗ cũ dễ dàng vì con biết rõ nó ở đâu”; và nói với người kia: “Cái khó của con là không nhận ra được chỗ của chúng.”
 
Lòng thống hối là điểm bắt đầu cho việc đón nhận Tin Mừng
 
22. Lời hứa
 
Nhạc sĩ Vũ Thành An trong nhạc phẩm “Bài không tên cuối cùng” đã có lời viết: “Biết bao lần em đã hứa. Hứa cho nhiều rồi lại quên.”
 
“Hứa.” Vâng, tự điển tiếng Việt phổ thông định nghĩa: hứa là nói với ai đó, với ý thức tự ràng buộc mình, sẽ làm điều gì đó theo yều cầu mà người đó đang quan tâm.
 
“Hứa cho nhiều rồi lại quên” nghĩa là gì? Xin thưa, chính là hứa mà không làm! Là hứa mà không làm điều đã hứa…
 
Hứa mà không làm điều đã hứa còn được gọi là “hứa cuội.” Hứa mà không làm điều đã hứa còn được gán cho nhiều từ ngữ khác như “hứa lèo… hứa hão… hứa hươu hứa vượn.”
 
Kinh Thánh có câu rằng: “Kẻ to miệng hứa… mà không giữ lời hứa chẳng khác nào có mây, có gió mà chẳng có mưa” (Cn 25,14).
 
Vâng, đó cũng là điều Đức Giêsu mạnh mẽ lên án qua dụ ngôn “hai người con.”
 
23. Cái đinh sám hối
 
Một người kia trở nên nghiện rượu, ông cũng xa rời Thiên Chúa và gia đình. Một hôm, trong khi đi dạo, ông hối hận vì cuộc sống hiện tại của mình khi ông chợt trông thấy một chiếc đinh bị rỉ và cong queo. Chiếc đinh đó nhắc nhớ ông về bản thân và cuộc đời ông. Vì vậy, ông nhặt nó lên và đem về nhà. Ông đặt nó lên đe, gò cho thẳng và lau sạch rỉ sét. Một giờ sau, chiếc đinh hầu như mới lại. Cũng thế, ông cũng có thể uốn nắn và thanh tẩy cuộc đời của ông. Suy nghĩ đó đã đem lại cho ông một sự biến đổi: Ông bỏ rượu và trở về với Thiên Chúa và gia đình. Hiện nay ông vẫn giữ chiếc đinh đã được gò thẳng và lau sạch ấy trong ví của mình.
 
Đã có bao giờ tôi hầu như giống chiếc đinh cong queo và rỉ sét đó chưa? Điều đó đã làm tôi thay đổi?
 
Ai thống hối tội lỗi thì đã được sạch tội. (Seneca)
 
24. Trách nhiệm vời việc làm
 
O. Henry nổi tiếng vì cách kết thúc câu truyện gây ngạc nhiên của ông. Có một câu truyện liên hệ đến một đứa trẻ thiếu thốn về mặt tình cảm. Nó luôn hỏi cha nó xem liệu nó có thể ngồi vào lòng ông được không. Nhưng người cha luôn gạt đi và bảo nó ra ngoài chơi. Điều không thể tránh khỏi đã xảy ra: cô bé lớn lên và chấp nhận tình yêu thương từ bất cứ ai, cô trở thành một gái điếm. Khi cô chết, thánh Phêrô thưa với Chúa Giêsu: “Hôm nay có một người xấu xa tội lỗi đến.” Và đây là kết luận gây ngạc nhiên khi Chúa Giêsu nói với thánh Phêrô: “Lúc cô ấy đến, hãy cho cô vào thiên đàng, còn khi người cha của cô đến, hãy bắt ông chịu trách nhiệm về cuộc đời của cô.”
 
Tôi có cảnh giác để không làm điều gì khiến cho người khác, đặc biệt là trẻ nhỏ mất niềm tin vào Chúa Giêsu không?
 
Người lớn là tấm gương để trẻ nhỏ soi vào.
 

CNTN 26B -

Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.

CNTN 26C -

Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.

LỄ CÁC THIÊN THẦN HỘ THỦ
 
Lời Chúa: Mt 18, 1-5. 10
 
Khi ấy, các môn đệ đến bên Chúa Giêsu mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, ai là kẻ lớn nhất trong Nước Trời?" Chúa Giêsu gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các ông mà phán rằng: "Thật, Thầy bảo thật các con: nếu các con không hoá nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời.
 
Vậy ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước Trời. Và kẻ nào đón nhận một trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy. Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này, vì Thầy bảo các con, thiên thần của chúng trên trời hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời."
 

TRUYỆN KỂ
 
1. Kẻ bé mọn trong cộng đoàn
 
Bài Tin Mừng hôm nay vừa nói đến trẻ nhỏ, vừa nói đến những kẻ bé mọn trong cộng đoàn. Ai là những kẻ bé mọn trong cộng đoàn?
 
Đó là những người tin vào Đức Giêsu (Mt 18, 6), nhưng đức tin của họ còn non yếu, mong manh. Đức Giêsu đã nặng lời với ai làm cho một kẻ bé mọn sa ngã. “Thà cột cối đá lớn vào cổ và ném nó dưới biển còn hơn.” Rõ ràng Đức Giêsu quý những kẻ bé mọn trong cộng đoàn.
 
Ngài không muốn họ bị tổn thương vì gương mù gương xấu. Câu cuối của bài Tin Mừng là một lời nhắc nhở nữa. “Anh em chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này” (c. 10). Lý do Đức Giêsu đưa ra khá đặc biệt: “Vì các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng thấy khuôn mặt của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.”
 
2. Người nhỏ nhất
 
Phá kỷ lục là ước mơ của các vận động viên. Làm sao phá kỷ lục của quốc gia, của vùng, của châu lục và thế giới?
 
Để phá kỷ lục cần có thành tích vượt hơn người đang giữ nó. Chỉ cần chạy nhanh hơn một phần ngàn giây, nhảy cao hơn hay xa hơn một centimét, cũng đủ để làm một kỷ lục đứng vững nhiều năm bị phá đổ.
 
Nhưng không phải chỉ các vận động viên mới thích phá kỷ lục. Các nước cũng tranh nhau xem ai là cường quốc về một lãnh vực nào đó. Có vẻ cả nhân loại đều ở trong một cuộc đua tranh xem ai đứng đầu.
 
Có những cuộc đua tranh lành mạnh, thúc đẩy tiến bộ. Nhưng cũng có những cuộc đua tranh dẫn đến chiến tranh và hủy diệt.
 
3. Thiên Thần Bản Mệnh giữ gìn tôi
 
Một vị linh mục kể lại một chứng từ: “Khi đó ngài làm cha sở ở một xứ đạo hẻo lánh miền quê bên Pháp, vào một đêm được tin một người đau nặng đang hấp hối, muốn xin ngài tới xức dầu. Trời về khuya, với bổn phận mục tử ngài ra đi làm phận sự của mình. Từ nhà xứ tới nhà người đau, ngài phải băng qua khu rừng vắng. Khi tới khu rừng, trời đã rất tối, ngài ngập ngừng, nhưng nghĩ lại và nhớ tới Thiên Thần Bản Mệnh, ngài cầu nguyện để Thiên Thần cùng đi với mình. Ngài mạnh dạn và đã tới xức dầu cho người bệnh kịp thời giờ hấp hối...
 
Mười năm sau, ngài được người ta báo: Có người tử tù sắp bị hành quyết, anh ta rất khó tính và không chịu nghe bất cứ một ai khuyên bảo. Nghe tin, ngài đã tới thăm vì lòng nhân từ mục tử. Vừa thấy ngài, người tử tù đã muốn phản ứng xua đuổi, không muốn gặp, nhưng khi nhìn trực diện ngài, bỗng anh ta ngừng lại và nói với ngài: “Có phải cha là cha sở họ X không?" Ngài ngạc nhiên trả lời: “Trước đây 10 năm tôi làm cha sở ở đó, nhưng bây giờ tôi đã đi nơi khác...
 
 Thì ra cách đây 10 năm, người tử tù lúc đó là tên ăn cướp giết người, đang lẩn trốn ở khu rừng mà tôi đi qua và hắn định bất cứ gặp thấy ai, hắn sẽ giết chết để lấy quần áo của khổ chủ mà hóa trang, đánh lừa lưới của pháp luật. Người tử tù kể lại: “Lúc đó y muốn giết tôi, nhưng thấy bên cạnh có người thanh niên lực lưỡng, thấy không thể thắng nổi, nên y đã để cho tôi và người thanh niên ấy đi bình an, vô sự."
 
Nghe người tử tù thuật lại, tôi ngạc nhiên và sực nhớ lại lúc đó tôi dừng lại để cầu nguyện xin Thiên Thần Bản Mệnh giúp đỡ. Như vậy, người thanh niên mà người tử tù thấy chính là Thiên Thần Bản Mệnh của tôi, đã giữ gìn tôi."
 
4. Các thiên thần hộ thủ
 
Mỗi người Chúa dựng nên đều có một thiên thần giữ mình, điều đó Chúa Giê-su đã khẳng định: “Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn nầy; quả thật, Thầy nói cho anh em biết; các thiên thần của họ không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt. 18, 10).
 
Và thánh Bê-na-đô minh chứng: “Chúa đã sai các thiên thần đến phục vụ các con, cắt đặt các ngài gìn giữ các con, và cho các ngài làm quản giáo cho các con." Thánh Giê-gô-ri-ô nói: “Phẩm giá các linh hồn cao quý biết bao, vì mỗi linh hồn đều được Thiên Chúa ban cho một thiên thần chăm sóc." Và thánh Ghê-rô-ni-mô viết: “Chúa biết ác tâm của ma quỷ, chúng luôn tìm cách ngăn cản không cho ai vào chỗ chúng đã mất trên thiên đàng, nên ban cho mỗi người một thiên thần hộ thủ, để chống trả kẻ thù của phần rỗi chúng ta."
 
“Ma quỷ đông đúc và độc dữ như sư tử, ngày đêm rình chực hãm hại con người, thì Chúa cũng ban cho họ vô số thiên thần quyền phép hơn gìn giữ bảo hộ. Ngay lúc mới sinh ra, mỗi người đều có một thiên thần giữ mình. Dù lương hay giáo, dù lành hay dữ, ai ai cũng được Chúa thương cho thiên thần che chở. Chẳng những Chúa cho thiên thần bảo vệ từng người, mà còn cho các ngài gìn giữ các xã hội, các cộng đoàn, các gia đình, mọi nước, mọi thành, mọi nơi chốn có con người trú ngụ. Như lời thánh Tô-ma tiến sĩ nói: “Có thiên thần bảo hộ các quốc gia, dân tộc, thành thị, cộng đoàn cũng như mỗi người."
 
“Thiên thần hộ thủ có trách nhiệm che chở chúng ta khỏi mọi sự dữ và gian nan khốn khó, cứu giúp chúng ta khỏi sa ngã phạm tội, giúp chúng ta làm lành lánh dữ, nâng đỡ chúng ta trong lúc yếu đuối, tăng thêm lòng can đảm mạnh mẽ, an ủi chúng ta trong những lúc sầu buồn đau khổ."
 
“Các ngài còn giúp sức chúng ta lướt thắng các chước cám dỗ của ma quỷ, xác thịt thế gian. Và nếu chúng ta có lỡ lầm sa ngã, các ngài nâng đỡ chúng ta ăn năn hối cải."
 
“Ngoài ra, các thiên thần hộ thủ dâng lên trước tòa Chúa các việc lành phúc đức và lời cầu nguyện hằng ngày của chúng ta, cầu thay nguyện giúp cho chúng ta được ơn lành của Chúa. Các ngài an ủi soi sáng chúng ta trong cơn bệnh hoạn chết chóc, và bênh đỡ chúng ta trong ngày phán xét."
 
“Tắt một lời, Chúa cho thiên thần hộ thủ gìn giữ che chở chúng ta trên khắp nẻo đường và suốt đời, như thánh Bê-na-đô nói, và bảo chúng ta hãy cám ơn Chúa, vì Người đã thương chúng ta, đồng thời phải kính sợ, thương mến, tin tưởng thiên thần giữ mình: “Người truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn trên khắp nẻo đường. Họ hãy cảm tạ Chúa vì tình thương Người, vì những kỳ công Người đã làm cho con cái loài người…”
 
“Người truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn trên khắp nẻo đường. Lời nầy phải mang lại cho bạn bao niềm kính sợ, tôn kính và tin tưởng: Kính sợ trước sự hiện diện, tôn kính trước lòng nhân hậu, tin tưởng trước sự phù trợ của các ngài."
 
5. Bạn đồng hành yêu thương
 
“Này Ta sai thiên sứ đi trước con, để giữ gìn con khi đi đường và đưa con vào nơi Ta đã dọn sẵn!"
 
A. Maclaren nhận định, “Nếu Chúa sai bạn đi trên những con đường đầy đá, Ngài sẽ cung cấp những đôi giày bền bỉ! Sai bạn đến một nơi xa lạ, Ngài sẽ chuẩn bị một người bạn đồng hành yêu thương! Và nếu muốn cứu độ chúng ta đời đời, Ngài ban Con Một!"
 
Lời Chúa ngày lễ Thiên Thần Bản Mệnh cho thấy tình yêu của Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta bao la như trời bể. Giáo lý Hội Thánh dạy, để canh giữ hồn xác chúng ta từ khi chào đời cho đến ngày tắt hơi, Chúa Cha ban cho mỗi người chúng ta một người ‘bạn đồng hành yêu thương’ như một vệ sĩ vô hình.



LỄ KÍNH - LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
 
Lời Chúa: Lc 1, 26-38
 
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
 
Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ." Nghe lời đó, Trinh Nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận.
 
Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?"
 
Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Đấng trinh nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được."
 
Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền." Và thiên thần cáo biệt trinh nữ. Đó là lời Chúa.
 

TRUYỆN KỂ
 
1. Gốc tích kinh Mân Côi
 
Căn cứ vào các nguồn tài liệu đáng tin nhất của Thánh Louis Marie Grignion de Monfort, trong cuốn “Bí Mật Kinh Mân Côi”, thì chính Đức Mẹ đã ban Kinh Mân Côi và dạy Kinh Mân Côi cho thánh Đaminh. Vào thế kỷ XV, Đức Mẹ đã hiện ra với thánh Đa Minh năm 1206 sau khi thánh nhân cầu nguyện và sám hối vì đã không thành công trong việc chống tà thuyết Anbi, thuyết cho rằng đồng hiện hữu của hai quy luật đối nghịch là Thiện và Ác.
 
Đức Mẹ đã khen ngài về sự chiến đấu anh dũng chống lại tà thuyết và trao cho ngài Chuỗi Mân Côi làm vũ khí phi thường, đồng thời giải thích cách sử dụng và hiệu quả của Chuỗi Mân Côi. Đức Mẹ bảo thánh Đa-Minh rao truyền Chuỗi Mân Côi cho những người khác. Từ đó, thánh Đaminh đã là sứ giả của Đức Mẹ và là tông đồ tiên khởi truyền bá Kinh Mân Côi từ năm 1214.
 
Và sự kiện cuối cùng, ngày Chúa nhật 07/10/1571, hải quân Công Giáo thắng hải quân Thổ nhĩ kỳ một trận thủy chiến oanh liệt ở vịnh Lepante. Tin chiến thắng được báo về Rô-ma vào Chúa nhật đầu tháng Mười, giữa lúc các hội viên Mân Côi đang rước kiệu trong thành phố. Để tạ ơn Đức Mẹ đã nghe lời cầu khẩn của các tín hữu, Đức Giáo Hoàng Pi-ô V, ngày 5.3.1572 truyền mỗi năm phải làm một lễ kính Đức Bà chiến thắng.
 
Ngày 1.4.1573, Đức Giáo Hoàng Ghê-go-ri-ô XIII đặt tên cho lễ này là lễ Mân Côi và truyền phải cử hành trong các nhà thờ có bàn thờ dâng kính Đức Mẹ Mân Côi vào Chúa nhật đầu tháng Mười. Năm 1716, Đức Giáo Hoàng Clément XI truyền cho toàn thể Hội thánh phải long trọng mừng lễ này. Đến năm 1913, Đức Thánh Piô X ấn định mừng lễ Mẹ Mân Côi vào ngày mồng 7 tháng 10.
 
Rồi năm 1917, trong cả sáu lần hiện ra tại Fatima với ba em thiếu nhi Lucia, Phanxicô và Giaxinta, Đức Mẹ đã kêu gọi các em hãy lần hạt Mân Côi hằng ngày. Trong lần hiện ra cuối cùng Mẹ đã tự xưng “Ta là Đức Mẹ Mân Côi."
 
2. Trọng lượng của kinh Mân Côi
 
Alphonso từ ngày được tôn lên làm vua nước Galicia, đã tỏ ra rất oai phong lẫm liệt. Nhà vua đi đâu cũng có các quan văn võ tả hữu theo hầu. Thần dân của vua hầu hết là những người công giáo ngoan hiền đạo hạnh. Biết thế nên muốn lấy lòng dân, vua luôn tỏ ra mình là người đạo đức, có lòng kính mến Đức Mẹ Mân Côi, để triều đình và thần dân bắt chước. Cho nên dụng ý nhà vua là làm thế nào cho thần dân biết mình là người năng lần chuỗi Mân Côi. Vua cho đặt một cỗ tràng hạt thật dài để quấn vào thắt lưng, mỗi khi vua đi ra ngoài. Dân chúng ai cũng trầm trồ khen ngợi nhà vua rất ngoan đạo. Cho nên để lấy lòng vua, các quan cũng như thần dân, ai cũng mang tràng hạt, và cũng bắt chước vua năng lần chuỗi Mân Côi kính Đức Mẹ. Nhưng than ôi, thực tế phũ phàng thay! Vua chỉ giả hình vậy thôi, chứ chẳng bao giờ ông đọc kinh cầu nguyện gì cả, chỉ lo ăn chơi trác táng .
 
Một ngày kia, vua lâm bệnh nặng, trong một thị kiến vua thấy mình bị đưa đến toà phán xét. Ma quỷ vây chung quanh tố cáo vua các tội tầy đình, và chúng chực sẵn để đầy vua xuống hoả ngục. Đang lúc Chúa Giêsu Đấng Thẩm Phán Tối Cao, sắp sửa luận phạt vua, thì Đức Mẹ xuất hiện biện hộ cho vua. Mẹ nói với Chúa Giêsu: Con hãy thư thả để Mẹ xem xét lại vụ này.
 
Đức Mẹ liền truyền cho các thiên thần đem các tội vua đã phạm khi còn sống để trên một bàn cân, và cỗ tràng hạt vua luôn luôn đeo bên mình, cùng các kinh Mân Côi đã được đọc do gương sáng đeo tràng hạt của vua, trên một bàn cân khác. Kết quả là cỗ tràng hạt nặng hơn các tội vua đã phạm.
 
Rồi Đức Mẹ nhìn vua một cách trìu mến và nói: để tưởng thưởng một chút công của con đã dành cho Mẹ, bằng cách đeo tràng hạt Mân Côi, Mẹ đã xin Con Mẹ cho con được ơn rất lớn lao là khỏi sa hỏa ngục. Con sẽ được sống thêm mấy năm nữa để làm việc đền tội. Nhà vua tỉnh lại kêu lên: “Ngợi khen chuỗi hạt Mân Côi của ĐứcTrinh Nữ Maria ! Nhờ đó trẫm được giải thoát khỏi sa hoả ngục." Sau khi bình phục, nhà vua đã sốt sắng truyền bá kinh Mân Côi, và lần chuỗi Mân Côi suốt ngày.
 
3. Thần lực kinh Mân Côi
 
Ngoài những ơn lạ Đức Mẹ ban nhờ thần lực của kinh Mân côi về phần hồn cũng như phần xác, * Mẹ Maria phán dạy Chân phước Alanô: “Bất cứ ai trung thành đọc kinh Mân côi và suy ngắm những mầu nhiệm sẽ được ân thưởng. Mẹ sẽ xin cho họ được tha mọi hình phạt và mọi tội lỗi trong giờ họ chết. Điều đó rất dễ đối với Mẹ, vì Mẹ là Mẹ Vua Trời và Người gọi Mẹ là Đấng đầy ơn. Và vì đầy ơn, Mẹ có thể ban phát ơn phúc cho các con cái dấu yêu của Mẹ."
 
- Thánh Đaminh: Sau thánh lễ và kinh Phụng vụ, không có sự tôn kính nào đẹp lòng Chúa Giêsu và Mẹ Thánh Người bằng sốt sắng đọc kinh Mân côi.
 
- Chân phúc Alanô: Kinh Kính mừng là một cầu vòng trên trời, là một dấu chỉ lòng thương xót và ân sủng Thiên Chúa ban cho thế giới. Mẹ muốn dân chúng có lòng sùng kính kinh Mân côi được ơn thánh và phúc lành của Con Mẹ torng cuộc sống và trong giờ họ chết. Mẹ muốn họ thoát khỏi mọi ràng buộc, để họ nên giống các vua đội triều thiên, cầm phủ việt và hưởng phúc vinh quang vĩnh cửu.
 
- Thánh Anphong: Nhờ kinh Mân côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trong nẻo trọn lành. Biết bao người nhờ kinh Mân côi đã được ơn chết lành và hưởng phúc trường sinh.
 
- Đức Gioan XXIII: Chớ gì kinh Mân côi gia đình là một hương thơm sự an bình cho gia đình các con. Ước chi con cái của các con chạy đến với Mẹ maria để gìn giữ sự trong trắng thơ ngây. Ước chi các bạn thanh thiếu niên học được nơi Đức Mẹ sự phấn khởi làm việc thiện và bảo đảm sự thanh khiết của họ. Ước chi người đau khổ hy vọng được niềm an ủi nơi Đức Nữ Trinh.
 
- Đức Phaolô VI: Kinh Mân côi đạo đức và phổ cập hiện ra như một chuỗi cứu độ treo trên cánh tay Chúa Cứu Thế và Mẹ Thánh Người, và do đó phát ra mọi ơn lành cho chúng ta và mọi niềm hy vọng đến với chúng ta.
 
- Đức Gioan Phaolô II: Trong những chục kinh Mân côi, tấm lòng chúng ta có thể hái lượm được những sự kiện làm thành đời sống cá nhân, gia đình, dân tộc, giáo hội và thế giới. Đó là những vấn đề cá nhân hay người thân cận, người thân quyến chúng ta. Như vậy, kinh Mân côi hoà nhịp đời sống con người.
 
4. Đến với Chúa Giêsu nhờ Mẹ Maria
 
Dưới thời Hitler, Đức quốc xã đã bắt không biết bao nhiêu giáo sĩ, tu sĩ nam nữ và giáo dân tập trung vào các trại, mà người ta gọi là “lò sát sinh." Linh mục Tito Brandsma, dòng Camêlô cũng bị bắt tập trung taị trại Dachau, gần Muechen, Tây Đức. Ngài đã bị án hành quyết ngày 26/7/1942. Biết mình sắp chết, do một cô y tá Đức quốc xã, chuyên môn làm cai nghề độc ác là chích thuốc độc cho tử tội. Cha đã chuẩn bị sẵn, lợi dụng lúc cô đang chích thuốc độc cho mình, thì ngài đưa cho cô xâu chuỗi Mân Côi, mà cha đã làm trong tù để kỷ niệm, hoặc sau này, nhờ cô là nhân chứng, để đem chuỗi hạt gửi lại cho người thân trong gia đình..
 
Cha nói với cô y tá: cô hãy dùng xâu chuỗi này để cầu nguyện. Cô ta đáp: “Tôi không cần, vì tôi không biết cầu nguyện.” Cha nói: “Cô cứ thử xem đi. Ít là cô hãy đọc câu: “Cầu cho chúng tôi là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử.” Đó là những lời cuối cùng của Linh Mục Brandsma trước khi chết. Dù vậy, cô cũng cứ cầm lấy chuỗi hạt Mân Côi mà vị tử tù cho để làm kỷ niệm.
 
Sau khi chế độ Đức quốc xã sụp đổ, cô ý tá phải đổi tên, đổi họ, đi sinh sống tại một vùng xa xôi hẻo lánh khác, để khỏi bị cảnh sát quốc tế lùng bắt, vì cô đã góp phần sát hại hàng ngàn tù nhân dưới chế độ Đức quốc xã. Chính nhờ xâu chuỗi Mân Côi của linh mục Brandsma, mà cô ý tá tìm lại được đức tin.
 
Năm 1955, khi Tòa Thánh lập hồ sơ phong Chân Phước cho cha Brandsma, cô cảm thấy hối hận, và quá cảm động, cô đã tự ý ra trình diện với chính quyền sở tại, thuật lại tất cả những gì đã xảy ra 10 ngày cuối cùng của cha Bradsma, để bổ túc vào hồ sơ phong Chân Phước.
 
5. Kinh Mân Côi, lời kinh của nhà bác học
 
Trên một chuyến xe lửa về Paris, một sinh viên trẻ tuổi ngồi bên một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ già rút trong túi áo ra một chuỗi tràng hạt và từ từ chìm đắm trong cầu nguyện. Người sinh viên quan sát cử chỉ của cụ già với vẻ bực bội. Sau một hồi lâu, xem chừng như không còn đủ kiên nhẫn nữa, anh ta mới lên tiếng:
 
- Thưa ông, nếu tôi không lầm thì ông vẫn còn tin những chuyện nhảm nhí ấy chứ?
 
Cụ già điềm nhiên trả lời?
 
- Đúng thế, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?
 
Người sinh viên cười một cách ngạo mạn và quả quyết:
 
- Lúc nhỏ tôi tin, nhưng bây giờ làm sao tôi có thể tin những chuyện ấy nữa. Khoa học đã thực sự mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi, hạy quăng chuỗi tràng hạt ấy đi, và hãy học hỏi những khám phá mới. Ông sẽ thấy rằng những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan cả.
 
Cụ gia bình tĩnh hỏi người sinh viên:
 
- Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học. Cậu có cách nào giúp tôi hiểu được điều nầy không?
 
Người sinh viên hăng hái đề nghị:
 
- Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi đến cho ông một quyển sách. Ông sẽ tha hồ đi vào thế giới của khoa học.
 
Cụ già từ từ rút trong túi áo ra một thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người sinh viên bỗng xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy có ghi: “Louis Pasteur viện nghiên cứu khoa học Paris."
 
6. Phương thuốc cho cả xác lẫn hồn
 
Cha Patrick Joseph Gillard-Peyton là vị Linh Mục tông đồ của Tràng Chuỗi Mân Côi. Cha chào đời ngày 9-1-1909 tại County Mayo trong gia đình Công giáo nghèo bên nước Ái-nhĩ-lan. Năm 18 tuổi, Patrick cùng với bào huynh Tom sang Hoa Kỳ tìm kế sinh nhai. Nhưng rồi Chúa gọi, Patrick từ giã anh, gia nhập chủng viện.
 
Lúc gần chịu chức Linh mục, thầy Patrick bỗng lâm bệnh lao phổi trầm trọng. Các bác sĩ cho biết vô phương cứu chữa! Giấc mơ Linh mục trong phút chốc tan thành mây khói .. Thầy Patrick chán nản buông tay bỏ cuộc. Một vị Linh Mục lão thành bất ngờ đến thăm và nói với Thầy: Hãy kêu xin Đức Mẹ MARIA chữa lành bệnh. Đức Mẹ là nguồn sự sống. Hãy tin tưởng nơi Đức Mẹ và yêu mến Đức Mẹ như Người Mẹ thật. Hãy kiên trì van nài và tin chắc chắn Đức Mẹ sẽ chữa lành. Đức Mẹ sẽ tỏ ra vô cùng nhân hậu với Thầy. Chính vì chúng ta tin tưởng quá ít nơi Đức Mẹ nên Đức Mẹ không ban cho chúng ta nhiều ơn!
 
Nghe vị Linh mục lão thành nói thế, Thầy Patrick bỗng nhớ lại chuỗi ngày niên thiếu nơi quê hương Ái-nhĩ-lan thân yêu. Thầy cũng nhớ đến “liều thuốc thần” hiền mẫu Thầy vẫn dùng trong cơn gian nan khốn khó. Đó là Tràng Chuỗi Mân Côi. Cứ chiều đến, cả gia đình tụ họp và cùng nhau sốt sắng lần hạt Mân Côi.
 
Giờ đây, vì hết hy vọng nơi các phương thuốc chữa trị trần gian, Thầy Patrick hướng về Trời Cao và kêu van Hiền Mẫu MARIA Thiên Quốc qua Kinh mân côi. Và Thầy được lành bệnh thật.
 
Năm 1941 - 32 tuổi - Thầy Patrick Peyton hân hoan lãnh thiên chức Linh mục trong dòng Thánh Giá. Từ đó Cha xác tín rằng: Thế giới cầu nguyện là thế giới hòa bình. Gia đình cầu nguyện là gia đình hiệp nhất. Nếu mỗi người, mỗi gia đình dành ít thời gian trong ngày để đọc Kinh mân côi thì các tổ ấm sẽ trở thành vườn địa đàng.
 
7. Sự tích kinh Mân Côi
 
Trong cuốn Bí Mật Kinh Mân Côi, Thánh Luy Maria Mongpho thuật lại sự tích Kinh Mân Côi như sau:
 
Vào cuối thế kỷ 12, bè rối Albigensê đang lan tràn và đời sống các tín hữu bị sa sút trầm trọng. Một lần Cha Thánh Đaminh đến một khu rừng gần thành phố Toulouse để ăn chay, đánh tội, than khóc và cầu nguyện liên lỉ trong ba ngày để xin Chúa cho các tội nhân ơn sám hối và cho những người theo bè rối Albigensê trở lại với đức tin chân thật. Thánh nhân đã bị ngất đi vì kiệt sức. Lúc ấy Đức Mẹ cùng với ba thiên thần đã hiện ra với ngài và nói:
 
- Đaminh yêu dấu, con có biết Chúa Ba Ngôi Chí Thánh muốn dùng khí giới nào để canh tân thế giới không?
 
Thánh Đaminh đáp:
 
- Thưa Mẹ, Mẹ biết rõ hơn con, vì liền sau Chúa Giêsu Con Mẹ, Mẹ luôn là khí cụ chính yếu cho phần rỗi chúng con.
 
Đức Mẹ bấy giờ dạy Thánh Đaminh:
 
- Mẹ muốn cho con biết rằng trong cuộc chiến này, khí giới phải dùng đến là Ca Vịnh Thiên Thần, viên đá nền tảng của Tân Ước. Vì vậy, nếu con muốn thuyết giảng cho các linh hồn cứng lòng để đem họ về với Chúa, con hãy rao giảng Ca Vịnh này của Mẹ.
 
Thánh nhân vui mừng chỗi dậy lòng đầy nhiệt thành muốn hoán cải dân chúng vùng ấy. Ngài liền đi thẳng đến Vương Cung Thánh Đường. Ngay lúc ấy, các thiên thần vô hình đã đổ chuông nhà thờ mời gọi dân chúng đến để nghe thánh nhân giảng.
 
Khi thánh nhân vừa lên tiếng giảng dạy, một cơn bão lớn xảy ra, đất chuyển rung, trời tối lại, sấm chớp nổ ầm ầm làm kinh thiên động địa. Dân chúng thấy bức ảnh Đức Mẹ treo ở một nơi tôn nghiêm giơ tay lên trời ba lần như kêu mời Chúa báo oán nếu họ không biết hối cải và tìm đến nương tựa nơi Mẹ Thiên Chúa. Thánh Mongpho cho rằng Chúa đã cho những hiện tượng này xảy ra khi Thánh Đaminh bắt đầu rao giảng về Kinh Mân Côi tương tự như khi Chúa ban Thập Điều cho Môisen năm xưa, để chứng thực tính cách quan trọng của Kinh Mân Côi trong chương trình cứu độ nhân loại.
 
8. Lời kinh của tuổi thơ
 
Mừng lễ Mẹ Mân côi, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về những tình cảm Mẹ đã dành cho tuổi thơ. Trước hết chúng ta sẽ đưa ra một vài sự kiện lịch sử.
 
Sự kiện thứ nhất, đó là biến cố Lộ Đức.
 
Tại đây Mẹ đã hiện ra với một cô bé mười bốn tuổi, tên là Bernadette. Mẹ bảo cô bé lần hạt và Mẹ cùng đọc với cô bé kinh Lạy Cha và kinh Sáng Danh. Đồng thời, Mẹ còn tỏ cho chúng ta thấy Mẹ là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.
 
Sự kiện thứ hai, đó là biến cố Phatima.
 
Tại đây Mẹ đã hiện ra với ba em nhỏ: Lucia mười tuổi, Giaxinta bảy tuổi và Phanxicô bảy tuổi. Đồng thời, qua ba em nhỏ này, Mẹ đã gửi đến mỗi người chúng ta ba mệnh lệnh: Hãy tôn sùng trái tim Mẹ, hãy cải thiện đời sống và hãy siêng năng lần hạt Mân côi.
 
Nếu ngày xưa Chúa đã yêu thương các trẻ nhỏ, bởi vì các em vừa đơn sơ và trong trắng, lại vừa tin tưởng và phó thác, thì bây giờ Mẹ cũng đã dành cho các em một tình yêu thương đậm đà, bởi vì các em đã mau mắn và quảng đại đáp trả lời khuyên nhủ của Mẹ.
 
Bernadette đã lần hạt với Mẹ và sau này vào tu trong một nhà dòng, sống một cuộc đời đạo đức và thánh thiện. Còn ba em nhỏ ở Phatima cũng thế.
 
Mẹ bảo:
 
- Phanxicô sẽ được lên thiên đàng nhưng phải lần hạt nhiều trước đã.
 
Và Phanxicô đã thưa lên:
 
- Lạy Mẹ, Mẹ muốn con lần hạt bao nhiêu cũng được.
 
Từ đó, không những lần hạt với hai em kia, mà cậu bé còn lần hạt riêng một mình nữa.
 
Lắm khi đang chơi với bạn, cậu bé lẻn đi lần hạt. Được hỏi tại sao thì cậu bé trả lời:
 
- Đức Mẹ bảo em phải lần hạt nhiều cơ mà.
 
Còn Giaxintha cũng vậy. Sau khi được Đức Mẹ hiện ra, em đã về nhà và nói với má:
 
- Má à, hôm nay con đã được nhìn thấy Đức Mẹ.
 
Bà mẹ bảo:
 
- Con đã là thánh đâu mà được nhìn thấy Đức Mẹ.
 
Rồi em xin phép má đi lần hạt với anh Phanxicô, bởi vì Đức Mẹ bảo:
 
- Chúng con phải lần hạt mỗi ngày.
 
Nhất là Lucia, em thường đứng lên lần hạt mỗi khi Đức Mẹ hiện ra. Sau khi được ơn nhìn thấy Đức Mẹ, em gia nhập phong trào Phatima để cùng với mọi người chống lại với những kẻ ghét đạo. Em cũng thường lần hạt chung với mọi người để suy gẫm về Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Sau cùng, em đã dâng hiến trọn cuộc đời mình trong dòng kín.
 
9. Mẹ thắng con rồi
 
Giovanni Tomasi là một người vô thần, cực đoan và quá khích với lòng sùng kính Đức Mẹ nơi mấy người đồng hương nước Ý.
 
Khi biết mình bị ung thư nan y, anh rơi vào khủng hoảng đến tuyệt vọng. Một người bạn thân rủ anh qua Lộ đức hành hương xin ơn Đức Mẹ. Vì nể bạn nên anh cũng đi dù chẳng tin một chút nào.
 
Anh trở về chẳng hề thuyên giảm, càng về sau lại càng đau đớn. Người bạn nói anh hãy thành tâm xin ơn Đức Mẹ. Anh đành nhận lời nhưng lại đến Lộ đức với một ý đồ khác. Sau nhiều lần uống nước ở chiếc giếng nơi hang đá Đức Mẹ mà chỉ thấy bệnh nặng ra, đau đớn hơn, Tomasi rơi vào tình trạng phẫn uất bởi tuyệt vọng.
 
Ngày 14.11.1987, anh mua một khẩu súng lục mới toanh, lắp đầy ổ đạn, đến trước hang Lộ đức, hét to lên một lời thách thức để ai cũng phải nghe thấy: “Nếu bà muốn tôi tin vào Thiên Chúa của bà, bà hãy làm phép lạ chữa lành căn bệnh ung thư của tôi. Bằng không, tôi sẽ dùng khẩu súng này để tự sát ngay tại đây, để cho cả thế giới đều biết bà chẳng có quyền năng gì, rằng đây chỉ là một trò bịp.”
 
Thinh lặng… căng thẳng, ai cũng thấy sợ và có người cầu nguyện cho anh.
 
Anh đưa súng vào màng tang và bóp cò. Đạn không nổ! Anh kinh ngạc tháo ổ đạn ra, thấy mọi sự bình thường. Sao lại không nổ vậy?
 
Rồi anh lại lên đạn và đưa súng lên bóp cò một lần nữa. Một tiếng cạch khô khốc, đạn vẫn không nổ. Lúc đó anh không còn tự chủ được nữa, hai chân quỵ xuống, bàn tay buông rơi khẩu súng. Anh ngước nhìn lên Mẹ, thổn thức hét lớn: “Mẹ ơi, Mẹ đã thắng con rồi!”
 
Tomasi mang căn bệnh trở về nhà nhưng với một tâm hồn đầy sức sống mới. Rồi anh đi khắp nơi để diễn thuyết, viết thư cho những người trong cảnh tuyệt vọng như mình để khích lệ, ủi an và mời gọi họ tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa và Mẹ Maria.
 
Tình yêu của Đức Mẹ đã chiến thắng và đem lại niềm vui và bình an cho một tâm hồn. Tình yêu đó cũng không thể ngồi yên nhìn cả thế giới hôm nay ngụp lặn trong hận thù, máu lửa, bóng tối của tội lỗi.
 
10. Lời kinh chiến thắng sợ hãi
 
Đức Cha Dupanloup, một viện sĩ thời danh của Pháp, tác giả cuốn ‘Lettres sur l’éducation des filles’, thường hay nhắc lại câu chuyện này:
 
Khi mới làm linh mục, ngài thường dạy các em nhỏ chuẩn bị rước lễ lần đầu là nếu mỗi ngày đọc ba kinh Kính Mừng dâng mình cho Đức Mẹ, và giữ cho đến chết, thì Đức Mẹ sẽ không bỏ rơi trong giờ phút sau cùng.
 
Sau này khi ngài làm Giám mục thì có cô con gái duy nhất của một vị tướng bị mắc bịnh ung thư lúc còn trẻ. Cô đã phát bệnh sau khi sinh đứa con đầu lòng, năm 20 tuổi. Cả gia đình không biết phải báo tin này như thế nào cho cô nên mới nhờ Đức Cha báo tin và giúp cô dọn mình chết lành. Ngài nhận lời nhưng cũng thấy bối rối vì không biết phải bắt đầu như thế nào. Bước vào phòng bệnh nhân, ngài hỏi:
 
- Chúa định cho con phải đau đớn quá nhỉ?!
 
Nhưng bệnh nhân tươi cười và hỏi lại:
 
- Đức Cha có tin chắc con được lên thiên đàng không?
 
Đức Cha trả lời:
 
- Cha hy vọng Chúa sẽ cho con lên thiên đàng.
 
Bệnh nhân lại nói:
 
- Đức Cha thì hy vọng, còn con thì tin chắc là con sẽ được lên thiên đàng.
 
- Làm sao mà con lại dám tin chắc là con được lên thiên đàng?”
 
- Thì chính Đức Cha đã dạy con mà.
 
Đức Cha ngạc nhiên:
 
- Cha đã dạy con khi nào?
 
Cô trả lời:
 
- Khi con học lớp giáo lý chuẩn bị xưng tội rước lễ lần đầu, Đức Cha đã dạy chúng con nếu mỗi ngày đọc ba kinh Kính Mừng, và dâng mình cho Đức Mẹ và giữ thói quen này cho đến chết thì chắc chắn là Đức Mẹ sẽ không bao giờ bỏ chúng con.
 
Con đã giữ thói quen đọc ba kinh Kính Mừng mỗi ngày; đặc biệt, từ ngày lập gia đình, con còn đọc thêm mỗi ngày năm chục kinh. Mỗi ngày con nói với Đức Mẹ năm mươi lần ‘Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử’ thì làm sao mà Đức Mẹ bỏ con được?
 
Và Đức Giám mục Dupanloup kết luận:
 
- Thay vì tôi yên ủi cô thì cô lại yên ủi tôi.
 
Đúng thế, khi đọc kinh Mân côi, tôi còn gì phải lo âu khi ở bên tôi có ‘Đấng toàn năng bởi lời cầu nguyện’.
 
11. Lời kinh chữa lành tâm hồn
 
Ở nước Tây Ban Nha, có một người phạm tội như uống nước lã! Không kể tội rối đạo, tội nào cũng là môn sở trường của ông. Tệ hơn cả, ông lại thích phạm những tội mà ông biết rõ là làm đau lòng Chúa nhất!
 
Ðến tuổi già lụ khụ, ông lâm trọng bệnh, nhưng tuyệt nhiên không hề có một ý nghĩ nào trở lại cùng Chúa….
 
Trong một đêm thức trắng, ông thấy Ðức Nữ Vương trên trời hiện ra gần giường ông, nhìn ông bằng đôi mắt thùy mị, nhân từ và thương xót, rồi biến đi mà không nói nửa lời.
 
Lúc đó, bệnh nhân mới nhớ cuộc đời đầy tội lỗi của mình. Nhìn về dĩ vãng đen tối, ông phiền sầu lo lắng nước mắt trào ra, nếu không vì yếu liệt, ông đã hối hả chạy đi gặp linh mục để xưng tội.
 
Sáng hôm sau, ông vội cho người đi mời linh mục. Chính cha Nieremberg, linh mục Dòng Tên, là tác giả chuyện này, đã được cử đến giúp ông. Tội nhân đã xưng thú một cách rõ ràng tỉ mỉ hết mọi tội lâu tới 3 giờ. Cha giải tội phải sửng sốt vì linh hồn ông được ơn soi sáng và lòng thống hối tuyệt vời như vậy.
 
Xưng tội xong, ông khấn hứa với Chúa trước mặt cha:
 
- Nếu Chúa cho con bình phục, con sẽ đi tu dòng để đền tội.
 
Nhưng ông lại thêm: “Nếu Chúa muốn cho con ra khỏi đời này, thì xin cha cầu nguyện cho con được làm trọn ý Chúa.”
 
Thánh ý Chúa đã được thực hiện. Năm ngày sau đó, đầy tâm tình thống hối và yêu mến, ông đã từ trần giữa những thương tiếc cũng như hoan hỉ của mọi người chứng kiến.
 
Trước khi chết cha Nieremberg có hỏi ông:
 
- Ông có quen làm việc để tôn kính Ðức Mẹ không?
 
Ông trả lời:
 
- Thưa cha con chỉ làm một việc rất nhỏ: hằng ngày đọc một kinh Kính Mừng. Hôm nay, con xin cha một điều là, để làm vinh danh Mẹ Thiên Chúa, xin cha hãy rao giảng mọi nơi về tình thương đặc biệt Ðức Mẹ đã đoái thương đến một kẻ rất tội lỗi, khốn nạn là con đây.
 
12. Lời kinh nâng đỡ
 
Nhớ lại hơn ba trăm năm, khi các Kitô hữu cha ông chúng ta bị ngược đãi và bách hại vì đức tin, có rất nhiều người trong số họ một chữ bẻ đôi cũng không biết, họ cũng chẳng thuộc được một đoạn Kinh Thánh, nhưng nhờ tràng chuỗi mân côi, lời kinh của niềm hy vọng, họ đã có được sức mạnh để trung kiên với đức tin cho đến hơi thở cuối cùng.
 
Một vị linh mục đến thăm người đàn ông bị bại liệt đã hơn ba năm. Giữa những lời trao đổi, ngài hỏi người bệnh:
 
- Không đi lại được, nằm một chỗ, ông có buồn không?
 
- Thưa Cha, nhiều lúc buồn lắm!
 
- Vậy ông làm gì những lúc rảnh để vơi nỗi buồn?
 
- Thưa cha, đây là niềm hy vọng và sức mạnh của con, vừa nói ông vừa cầm xâu chuỗi đưa lên trước mặt ngài.
 
Đau ốm, thất bại, yếu đuối và lỗi lầm trong cuộc sống dễ làm cho chúng ta chán nản buông xuôi. Nhưng là người tín hữu Công Giáo, chúng ta được nâng đỡ nhờ dòng suối ân sủng là các bí tích, ánh sáng của Lời Chúa, giáo huấn của Hội Thánh và phương thức đạo đức bình dân là kinh mân côi. Trong Tông Thư Kinh Mân Côi ở số 1, Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng quả quyết với chúng ta: “Qua kinh mân côi các tín hữu lãnh nhận vô vàn ơn thiêng, hầu như qua chính đôi tay của Mẹ Đấng Cứu Thế.”
 
Năm 1917, khi hiện ra tại Fatima, một trong những lời Đức Mẹ căn dặn là: “Hãy siêng năng lần hạt mân côi."
 
13. Lời kinh của gia đình
 
Trong cuốn “Năm chiếc bánh và hai con cá”, Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận kể: “Mẹ tôi đã đổ vào tim tôi lòng kính mến Đức Mẹ từ tuổi ấu thơ. Bà nội tôi, mỗi buổi tối, lúc gia đình đọc kinh xong rồi, bà còn ngồi lần thêm một tràng hạt. Tôi hỏi, bà trả lởi:
 
- Mệ lần một chuỗi cầu nguyện cho các cha.
 
Bà tôi không biết đọc biết viết, nhưng chính những người bà, người mẹ như thế, đã vun trồng hạt giống ơn thiên triệu trong lòng chúng tôi.”
 
Thấy rõ tầm quan trọng của việc lần chuỗi Mân Côi và giờ kinh trong các gia đình, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong Tông thư Kinh Mân Côi đã nhắc nhở và khẩn thiết mời gọi: “Là lời kinh cầu cho hoà bình, Kinh Mân Côi cũng là và luôn luôn là lời kinh của gia đình và cho gia đình. Lời kinh này đã một thời hết sức thân thiết với các gia đình Kitô giáo, và hẳn đã làm cho các gia đình xích lại gần nhau hơn. Điều quan trọng là đừng đánh mất gia sản quý báu đó. Chúng ta cần phải quay lại với thói quen cầu nguyện trong gia đình và cầu nguyện cho gia đình, khi tiếp tục sử dụng Kinh Mân Côi.” (số 41)
 
14. Chuỗi kinh ơn lành
 
Hoàng hậu Blanche xứ Castille nước Pháp đã phải đau buồn cùng cực vì bà thành hôn mười hai năm rồi mà vẫn không có con. Khi đến thăm thánh Đaminh, Ngài khuyên hoàng hậu đọc kinh Mân Côi hàng ngày để xin Thiên Chúa ban diễm phúc được làm mẹ. Hoàng hậu trung thành theo lời khuyên của thánh nhân. Năm 1213 hoàng hậu hạ sinh hoàng nam đầu lòng. Đó là hoàng tử Philip. Nhưng con trẻ chết ngay khi còn trong trứng nước.
 
Trước nỗi bất hạnh này, hoàng hậu vẫn không ngã lòng, không chút nao núng niềm tin. Trái lại, bà tha thiết van xin Đức Mẹ cứu giúp. Hoàng hậu cũng phân phát nhiều tràng hạt Mân Côi cho các triều thần cùng dân chúng trong cả nước, và xin tiếp lời cầu nguyện cho bà.
 
Năm 1215, qua sự bầu cử của Đức Mẹ, Chúa đã nhận lời cầu xin của bà, một vị hoàng tử chào đời. Hoàng tử này đã trở thành vinh quang cho nước Pháp, và là gương mẫu cho tất cả các hoàng đế Công giáo. Vị hoàng đế này sau đã trở thành một vị thánh. Đó là vua thánh Louis.
 
Kể sao cho hết những ơn lành Mẹ Maria đã ban xuống cho nhân loại qua kinh Kính Mừng. Bởi vì kinh Kính Mừng là kinh mà Chúa Giêsu và Đức Mẹ rất ưa thích.


15. Hai bức tranh
 
Có thể nói với bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử Luca đã trình bày cho chúng ta hai bức tranh khác hẳn nhau về Đức Maria:
 
1. Bức tranh thứ nhất: Một Đức Maria tầm thường.
 
- Maria chỉ là một thiếu nữ nhà quê. Chắc chắn là cuộc sống chẳng có gì nổi bật. Ngay cái tên Maria cũng chỉ là một tên gọi bình dân mà rất nhiều người có. Trong Tân Ước chúng ta thấy ít nhất đã có 4 người mang tên đó: Maria Mẹ của Đức Giêsu, Maria, Mẹ của Giacôbê và Giuse, Maria Mađalêna và Maria chị của Matta và Ladarô.
 
- Nagiareth, nơi Maria sinh sống cũng chỉ là một thị trấn nhỏ bé, một thị trấn hầu như vô danh. Cựu Ước không lần nào nhắc tới và trong Tân Ước có lần người ta đã nhắc tới nhưng nhắc tới với một thái độ chẳng mấy thiện cảm: “Ở Nagiareth làm gì mà có những điều hay ở đó”(Ga 1,40).
 
Đó là bức tranh thứ nhất.
 
 2. Bức tranh thứ hai: Một Đức Maria cao sang.
 
- Thiên sứ gọi Đức Maria bằng những tước hiệu rất cao sang: Bà đầy ơn sủng, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà là người đẹp lòng Thiên Chúa.
 
- Con của Bà sẽ sinh ra là Đấng Cao cả: Ngài là Con Đấng tối cao, Con Thiên Chúa, Ngài sẽ trị vì trong nhà Giacob đến muôn đời, triều đại Người vô cùng vô tận...
 
Toàn là những lời mà một người nhà quê như Đức Mẹ khó mà có thể tưởng tượng được. Thế nhưng đó lại là sự thật.
 
3. Do đâu mà một thiếu nữ nhà quê tầm thường như thế bỗng trở nên cao trọng như vậy?
 
Câu trả lời: Do sự khiêm tốn của Đức Mẹ.
 
Khi Đức Mẹ thưa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa. Xin cứ làm cho tôi như lời thiên sứ nói”(Lc 1,38) thì Đức Mẹ đã ngoan ngoãn để cho Thiên Chúa “làm” mọi sự nơi ngài rồi. Đức Mẹ hiến dâng cuộc đời của mình cho Thiên Chúa, không cản trở, không đòi Thiên Chúa phải làm bất cứ một điều gì theo ý riêng của mình nữa.
 
Đối với một Thiên Chúa Toàn năng: “Đối với Người, không có gì là không thể làm được”(Lc 1,37), Đức Mẹ không còn một chút sợ hãi nào nữa. Tin tưởng phó thác tất cả đời mình trong bàn tay của Thiên Chúa: Đó là một quyết định dứt khoát và trọn cả cuộc đời.
 
Và đó cũng là con đường làm nên sự cao cả của Đức Mẹ.
 
16. Giá trị của tiếng xin vâng
 
Vào một ngày đẹp trời, các phóng viên thiên thần được diện kiến “người nữ có phúc hơn mọi người nữ” là Đức Maria. Các ngài làm một cuộc phỏng vấn chớp nhoáng:
 
- Chào Bà! Bà đã từng làm người.Vậy theo Bà, sứ mệnh của nhân loại là gì?
 
- Là sống cho Chúa.
 
- Người nữ “chân yếu tay mềm” phải làm gì để có thể hoàn tất vai trò của mình trong gia đình, xã hội và Giáo hội?
 
- Hãy trung thành với ơn gọi cao cả mà Thiên Chúa trao ban qua nữ tính của họ”
 
- Nhưng càng nhu mì, càng hiền dịu càng bị đối xử bất công, làm sao tìm được bình đẳng mà không đánh mất nữ tính?
 
- Mỗi người có một bản sắc riêng. Hãy thể hiện trọn vẹn nét độc đáo ấy.
 
- Như vậy là sẽ không có sự bình đẳng tuyệt đối?
 
- Chỉ có sự bình đẳng hoàn hảo nhất. Đó là sự bình đẳng trước mặt Thiên Chúa!
 
Và Đức Maria đã minh chứng điều này qua sự cộng tác của Mẹ vào công cuộc cứu chuộc của Đức Giêsu với bí quyết rất nữ tính: “Xin vâng”
 
Thông qua hai tiếng “Xin Vâng” Mẹ như thầm nhắn nhủ: Hạnh phúc và sự bình đẳng của phận người tùy thuộc vào sự đáp trả của mỗi người trước tiếng gọi của Thiên Chúa chứ không phải là những khả năng của phái tính mà mỗi người mang trong mình. Biết nhận ra và đáp trả lời mời gọi của Ngài trong từng giây phút của cuộc sống như Mẹ Maria. Đó là cách tốt nhất để sống ơn gọi làm người và cũng là cách tốt nhất để làm nên sự cao cả cho cuộc sống của mình.
 
17. Sự tích Kinh Mân Côi
 
Vào cuối thế kỷ 12, bè rối Albigensê đang lan tràn và đời sống các tín hữu bị sa sút trầm trọng. Một lần Cha Thánh Đaminh đến một khu rừng gần thành phố Toulouse để ăn chay, đánh tội, than khóc và cầu nguyện liên lỉ trong ba ngày để xin Chúa cho các tội nhân ơn sám hối và cho những người theo bè rối Albigensê trở lại với đức tin chân thật. Thánh nhân đã bị ngất đi vì kiệt sức. Lúc ấy Đức Mẹ cùng với ba thiên thần đã hiện ra với ngài và nói:
 
- Đaminh yêu dấu, con có biết Chúa Ba Ngôi Chí Thánh muốn dùng khí giới nào để canh tân thế giới không?
 
Thánh Đaminh đáp:
 
- Thưa Mẹ, Mẹ biết rõ hơn con, vì liền sau Chúa Giêsu Con Mẹ, Mẹ luôn là khí cụ chính yếu cho phần rỗi chúng con.
 
Đức Mẹ bấy giờ dạy Thánh Đaminh:
 
- Mẹ muốn cho con biết rằng trong cuộc chiến này, khí giới phải dùng đến là Ca Vịnh Thiên Thần, viên đá nền tảng của Tân Ước. Vì vậy, nếu con muốn thuyết giảng cho các linh hồn cứng lòng để đem họ về với Chúa, con hãy rao giảng Ca Vịnh này của Mẹ.
 
Thánh nhân vui mừng chỗi dậy lòng đầy nhiệt thành muốn hoán cải dân chúng vùng ấy. Ngài liền đi thẳng đến Vương Cung Thánh Đường. Ngay lúc ấy, các thiên thần vô hình đã đổ chuông nhà thờ mời gọi dân chúng đến để nghe thánh nhân giảng.
 
Khi thánh nhân vừa lên tiếng giảng dạy, một cơn bão lớn xảy ra, đất chuyển rung, trời tối lại, sấm chớp nổ ầm ầm làm kinh thiên động địa. Dân chúng thấy bức ảnh Đức Mẹ treo ở một nơi tôn nghiêm giơ tay lên trời ba lần như kêu mời Chúa báo oán nếu họ không biết hối cải và tìm đến nương tựa nơi Mẹ Thiên Chúa. Thánh Mongpho cho rằng Chúa đã cho những hiện tượng này xảy ra khi Thánh Đaminh bắt đầu rao giảng về Kinh Mân Côi tương tự như khi Chúa ban Thập Điều cho Môisen năm xưa, để chứng thực tính cách quan trọng của Kinh Mân Côi trong chương trình cứu độ nhân loại.


18. Một khởi đầu lạ lùng
 
Nếu tháng 5 có hoa mùa hạ, thì tháng 10 có ‘hoa mùa thu’. Đó là những cánh hoa thiên nhiên tươi xinh muôn sắc và những kinh Kính Mừng sốt sắng mà mọi Kitô hữu trên khắp thế giới dâng lên người Mẹ quyền uy của mình bốn mùa xuân hạ thu đông; cách đặc biệt, trong tháng Hoa và tháng Mân Côi.
 
Kinh Mân Côi, lời kinh mời gọi tín hữu chiêm ngắm sự ra đời, sự sống, cái chết, sự phục sinh và cuộc lên trời của Chúa Cứu Thế; cùng sự rợp bóng của Chúa Thánh Thần trong ngày Lễ Ngũ Tuần. Bên cạnh đó, chúng ta chiêm ngắm sự vinh hiển và khổ đau của Mẹ trong các mầu nhiệm của Chúa Giêsu, Con của Mẹ, một người mẹ của ‘một khởi đầu lạ lùng’ trong công trình cứu độ. Lời Chúa hôm nay trình bày hai trong các mầu nhiệm!
 
Tin Mừng tóm kết mầu nhiệm đầu tiên của Năm Sự Vui, “Thiên thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai”; đang khi bài đọc Công Vụ Tông Đồ là phần mở đầu cho câu chuyện của “Chúa Thánh Thần”. Trong biến cố truyền tin, Thiên Chúa quyền năng đã cúi mình trước một thiếu nữ Nazareth để xin cô cộng tác vào công trình cứu độ, Maria được báo cho biết, “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ toả bóng trên bà!”. Như một cuộc sáng tạo mới, Gabriel loan báo một ‘Lễ Hiện Xuống’ cho riêng Đức Mẹ. Thánh Thần là tác nhân không thể thiếu vào thời điểm của ‘một khởi đầu lạ lùng’, của ‘một cuộc tạo dựng mới’; cũng như vào buổi đầu Sáng Thế, Thần Khí Chúa đã bay là là trên mặt nước.
 
“Lạy Mẹ Maria, sẽ là ‘một khởi đầu lạ lùng’ cho bản thân con khi con biết thanh tẩy chính mình, lánh xa tội lỗi và được biến đổi bởi ân sủng của Chúa Thánh Thần!”, Amen.



19. Đức Mẹ Phù Hộ 
 
Nếu bạn có cơ hội đến thăm Vương cung thánh đường Đức Mẹ Phù Hộ ở thành phố Turin, miền bắc nước Ý, thì ở phía sau nhà thờ, bạn sẽ nhìn thấy một bức tranh mô tả giấc mơ nổi tiếng của người xây dựng vương cung thánh đường, thánh Gioan Bosco.
 
Ở giữa bức tranh là một con tàu lớn đang chiến đấu một trận chiến ác liệt trên biển. Con tàu bị bao vây bởi một hạm đội lớn của kẻ thù đang nỗ lực bắn phá nó bằng đạn đại bác và bom cháy; nó húc các mũi nhọn sắc bén của chúng vào mạn tàu.
 
Một người đàn ông mặc đồ trắng đứng ở mũi tàu cố gắng hướng dẫn nó vào bờ an toàn. Cách một khoảng bằng chiều rộng của con tàu là hai cột cao mà tàu phải đi qua để vào bờ. Trên đỉnh của một trong hai cây cột là hình ảnh của Mẹ Maria với dòng chữ “Phù hộ các giáo hữu” được viết bên dưới; trên đầu của cột kia là hình bánh thánh màu trắng, với dòng chữ “Ơn cứu độ của người tín hữu” bên dưới. Mỗi khi một tàu địch thành công trong việc tạo ra một vết nứt ở mạn tàu, một cơn gió nhẹ thổi đến từ các cột trụ vá lại lỗ thủng. Vào một lúc nọ, theo lời kể của giấc mơ, thuyền trưởng mặc áo trắng bị thương và chết, những người trong tàu của kẻ thù reo hò và vui mừng.
 
Tuy nhiên, gần như ngay lập tức, mọi người trên con tàu bầu một thuyền trưởng mới, cũng mặc đồ trắng, đứng dậy ngay để tiếp tục hướng dẫn con tàu đến nơi an toàn. Cuộc chiến tiếp tục diễn ra ác liệt, nhưng thuyền trưởng mới thành công bẻ lái con tàu giữa hai trụ, đưa nó vào cảng. Ngay sau khi nó được neo vào hai cột, tất cả các tàu địch đã bỏ chạy, va vào nhau và vỡ ra từng mảnh.
 
Đột nhiên, mặt nước tĩnh lặng, và một sự bình yên bao trùm trên biển. Cũng trong bức tranh này là những hình ảnh khác giúp chúng ta suy niệm về lễ trọng kính Đức Mẹ Mân Côi. Thánh Gioan Bosco, một vị thánh nhiều giấc mơ trong cuộc đời của mình, đã nhìn thấy cảnh tượng được mô tả trong bức tranh này vào một đêm tháng Năm năm 1862.
 
Ngài hiểu ngọn cờ là hình ảnh của Giáo hội, thuyền trưởng mặc áo trắng là biểu tượng của Đức Thánh Cha, và những con tàu của kẻ thù là Satan đang đánh phá và bách hại Giáo hội. Hai cây cột và những hình ảnh đặt trên đó tiêu biểu cho sự bảo vệ và giúp đỡ mà Chúa Giêsu và Đức Mẹ cung cấp cho Giáo hội lữ hành trên dương thế. Trong khi trình bày cách giải thích này, người ta cũng có thể đưa ra nhiều so sánh giữa những hình ảnh này với kinh nghiệm riêng của mỗi người khi tiến về phía trước trong cuộc hành hương về quê trời. (Cha David Rider; do cha Tony Kayala trích dẫn.
 
 

20. Mẹ là mẹ của con 
 

Năm 1929, chỉ 17 ngày trước sinh nhật thứ 9 của mình, cậu bé Karol Wojtyla – vị Giáo hoàng Gioan Phaolô II tương lai – từ trường học về nhà vào buổi tối. Cậu đã quen với việc nhìn thấy cha mình – một người lính mạnh mẽ trong quân đội Ba Lan – quỳ gối cầu nguyện trên sàn gỗ cứng trong phòng khách nhà họ.
 
Tuy nhiên ngày hôm đó, khi Karol nhìn thấy cha mình cầu nguyện, cậu thấy đầu gối cha mình ướt đẫm trong một vũng nước mắt. “Có chuyện gì vậy, Papa?” Giáo hoàng tương lai hỏi cha mình. “Karol à, mẹ của con vừa mới mất rồi!” là câu trả lời của cha cậu.
 
Quá bất ngờ, và không biết phải làm gì, cậu bé tám tuổi chạy ra khỏi nhà, vội đến nhà thờ giáo xứ ở Wadowice, cách căn hộ Wojtyla chưa đầy nửa dãy nhà. Cậu bước vào nhà thờ và gần như theo bản năng, chạy lên lối giữa đến quỳ gối trước tượng Đức Mẹ, và với chính giọt nước mắt của mình, cầu nguyện với Ngài: “Lạy Mẹ Chúa Giêsu, con không biết tại sao Chúa bắt mẹ con về nhà Cha vào thời điểm này. Nhưng con biết một điều: Bây giờ Mẹ là mẹ của con!”
 
Đức Thánh Cha, ngài đã phó dâng cho Đức Mẹ trước sinh nhật thứ chín, tiếp tục dâng mình cho Đức Mẹ luôn mãi. Khẩu hiệu của ngài, “Totus Tuus,” xuất phát từ lời cầu nguyện dâng mình cho Đức Mẹ của thánh Louis Marie Grignion de Montfort, người đã cầu nguyện mỗi ngày: “Hỡi Maria! Con là tất cả của Mẹ, và tất cả những gì con có đều là của Mẹ. Con hoàn toàn đón Mẹ vào nhà của con. Hỡi Maria! xin ban cho con trái tim của Mẹ,” để con có thể yêu mến Chúa hơn. (Theo cha Roger J. Landry)
 
 

21. Khác biệt thật sự 
 
Một cậu bé đánh giày miệt mài làm công việc của mình ở Nhà ga Trung tâm Thành phố New York. Khi cậu chà mạnh đôi giày sáng bóng của một người đàn ông sang trọng, tượng ảnh Đức Mẹ bằng bạc đeo trên cổ cậu lắc qua lắc lại.
 
Người đàn ông tò mò hỏi: “Con trai, cái vòng bạc quanh cổ con là gì vậy?”- Đó là ảnh của mẹ Chúa Giêsu,” cậu bé trả lời. Người đàn ông hỏi tiếp: “Tại sao lại là ảnh của bà ấy?” Cậu bé nói: “Bà ấy cũng không khác gì mẹ của ông ạ.” “Có thể vậy đấy, nhưng thật sự có một sự khác biệt lớn giữa Con của bà và cháu.”
 
 
* Lòng sùng kính của cậu bé đối với Mẹ Maria có thể là lời nhắc nhở tôi: Mẹ Maria đóng vai trò gì trong đời sống của tôi? Mẹ đã giúp tôi lớn lên trong đời sống thiêng liêng thế nào? (Theo cha Mark Link, trong Vision 2000).
 
 

22. Ai lại không có mẹ 
 
Đức ông Tonne kể câu chuyện về một linh mục ở một thành phố nhỏ tiểu bang Alabama, nơi hầu hết là những người theo đạo Tin lành Baptít. Mùa Giáng Sinh năm ấy, vị linh mục quyết định thiết kế  một máng cỏ Chúa Hài Đồng ở quảng trường thành phố.
 
Vị linh mục cùng với một số giáo dân đại diện giáo xứ đi đến một số doanh nghiệp và gia đình giàu có để quyên góp kinh phí. Khi họ đến gặp một biên tập viên giàu có của tờ báo địa phương, vị linh mục giải thích về công việc đầy ý nghĩa của mình: “Nhiều người, nhất là các trẻ em sẽ được truyền cảm hứng để nhìn thấy Chúa Giêsu, Đức Mẹ, thánh Giuse và các con vật dễ thương ngay tại trung tâm thị trấn.” Biên tập viên đồng ý giúp đỡ, nhưng với điều kiện không được đặt tượng Maria trong máng cỏ. Bởi vì “nó sẽ tôn vinh cộng đoàn Công giáo của các bạn”.
 
Vị linh mục nói: “Hãy nói cho tôi biết làm thế nào một người con sinh ra mà không lại không có mẹ, thì tôi sẽ đồng ý để tượng Maria ra ngoài”. Người biên tập tờ báo không trả lời được, và Mẹ Maria với Chúa Con nổi bật ở quảng trường thành phố mùa Giáng Sinh ấy.
 
 

23. Biểu tượng của niềm tin 
 

Knute K. Rockne không chỉ là cầu thủ nổi tiếng nhất trong lịch sử thể thao của Đại học Notre Dame; anh còn là một trong những huấn luyện viên vĩ đại nhất trong lịch sử bóng đá Mỹ. Tuy nhiên sự nghiệp của Rockne đã kết thúc quá sớm và bi thảm.
 
Chiếc máy bay mà anh đi vào ngày 31 tháng 3 năm 1931, đã bị rơi ở vùng nông thôn gần Bazaar, Kansas. Thật mau chóng, các nhà chức trách vội vã đến hiện trường nơi chiếc máy bay bị cháy rụi nằm đó. Họ truy tìm danh tính của các nạn nhân, nhưng đã gặp nhiều khó khăn trong việc xác định thi thể của những người bị cháy sém. Nhưng họ không gặp vấn đề gì khi nhận ra huấn luyện viên nổi tiếng Rockne. Anh ta là người có một chuỗi Mân Côi vẫn còn cuốn quanh bàn tay.
 
 
* Cha Robert F. McNamara đọc câu chuyện này nói: “Tôi tin chắc rằng cả cái chết và sự sống…không thể tách anh ấy ra khỏi lòng yêu mến Đức Mẹ.”
 
24. Một số người tiêu biểu 
 
Người ta thấy Mẹ Têrêsa luôn đọc kinh Mân Côi ngay cả những lúc bận việc nhất. Ông Daniel O’Connell, một chính trị gia được mệnh danh là “Người cha của dân tộc Ireland” đã đọc kinh Mân Côi trong phòng riêng của mình trước mỗi phiên họp của quốc hội, và không có gì lạ khi Ireland được gọi là “Xứ sở của Kinh Mân Côi”.
 
Người nổi tiếng phát động đọc Kinh Mân Côi, Fr. Peyton, thách thức chúng ta: “Dành ra mười phút để lần chuỗi Mân Côi ở nhà, bạn sẽ biến ngôi nhà của bạn thành thiên đàng bình an.” Nhà khoa học vĩ đại, William Ampere – khám phá ra điện năng-, khi về già đã truyền cảm hứng và cải đạo cho Frederick Osanam (người sáng lập Hội thánh Vinh Sơn Phaolô), bằng cách đọc Kinh Mân Côi hàng ngày tại một hang động.
 
Những lời cuối cùng của nhà bác học Louis Pasteur với y tá của mình trước khi ông qua đời cách xa nhà mình là: “Hãy nói với vợ tôi rằng tôi chết đang lúc đọc kinh Mân Côi.”
 
 

25. Lòng sùng kính Đức Mẹ 
 
Tạp chí Life ước tính rằng lời cầu nguyện “Kính mừng Maria” được đọc khoảng hai tỷ lần mỗi ngày; và mỗi năm có từ năm đến mười triệu người hành hương đến Đền Đức Mẹ Guadalupe ở Thành phố Mexico. Nhiều tín hữu cũng thường đi hành hương đến các địa điểm của Đức Mẹ ở nhiều nơi khác trên thế giới. Đức Maria được cầu nguyện như là đấng bênh vực, che chở, và trợ giúp.
 
Ngay cả trong lĩnh vực thể thao cũng đề cập đến sự can thiệp của Đức Mẹ: đường chuyền cứu nguy cuối cùng của một đội bóng đang thua cuộc từng được gọi là “đường chuyền kinh Kính mừng”.
 
Đức Maria cũng được những tín đồ Hồi giáo tôn kính. Được biết, khi nhà tiên tri Muhammad dọn sạch các tượng thần ra khỏi Kaaba ở Mecca, ông chỉ cho phép duy nhất một bức bích họa của Đức Mẹ đồng trinh Maria ẵm Chúa Giêsu Hài Đồng được ở lại. Trong Kinh Qur’an, Mẹ Maria được mô tả là người được gửi đến với danh hiệu “lòng thương xót cho thế giới.”
 
 

26. Biểu tượng sống động
 
Có một câu chuyện rất ý nghĩa kể về một chuyến tàu lửa, trong chuyến hành trình dài và tẻ nhạt. Một số người lớn tuổi của một viện dưỡng lão muốn đi đến một điểm nghỉ dưỡng, vào thời gian nghỉ hè.
 
Tại một nhà ga, một người mẹ trẻ với một cô gái nhỏ bước vào tàu. Đứa trẻ mỉm cười với tất cả những khuôn mặt nhăn nhó, ưu tư, cau có xung quanh mình và bắt đầu chạy lăng xăng từ lòng người này sang lòng khác nói chuyện, hét lên vui vẻ và vỗ nhẹ vào tay mọi người.
 
Ngay lập tức, bầu không khí ảm đạm và im lặng ngột ngạt trong đoàn tàu được thay đổi thành một niềm vui và hạnh phúc.
 
 
* Chúng ta hãy luôn sống trong niềm vui mừng và tạ ơn nhớ đến sự hiện diện của Đức Maria và Con của Mẹ là Chúa Giêsu đã biến đổi cái thế giới vô vọng, không có niềm vui và tội lỗi này thành một nơi vui tươi và hạnh phúc.
 
 

27. Chuyện vui
 

Cô Thanh Lan là giáo lí viên dạy lớp giáo lí lớp sữa đức tin ngày Chúa nhật. Cô vừa giải thích xong về lễ Đức Mẹ Mân Côi cho các em trong lớp học của mình. “Bây giờ,” cô ấy nói, “những ai muốn lên Thiên đàng để nhìn thấy Đức Mẹ thì giơ tay.” Tất cả bọn trẻ đều giơ tay ngoại trừ cô bé Hân ngồi ở hàng ghế đầu. Cô Thanh Lan hỏi: “Em không muốn lên Thiên đàng sao, Hân?” Hân rưng rưng nước mắt nói: “Em không thể. Mẹ em bảo em phải về thẳng nhà ngay sau giờ học giáo lí!”.
 
Một ngày nọ, Chúa Giêsu đi dạo quanh Thiên đàng và bất chợt nhận thấy có một số người đang lẩn trốn tại các con đường quanh công viên, những người này đã được xét là không được vào Thiên đàng. Ngài vội tìm thánh Phêrô ở cổng và nói với ông: “Phêrô, anh đã được giao nhiệm vụ của mình mà không chu toàn; anh đưa sai người vào Thiên đàng.” Phêrô than van với Chúa: “Xin đừng trách con, Chúa ơi”. “Con từ chối họ giống như Chúa đã truyền lệnh. Nhưng họ lại đi vòng ra phía sau, và Mẹ của Chúa đã mở cửa cho họ vào! Và con thực sự là ‘bó tay chấm com luôn!’”


28. Mẹ Têrêsa và tràng chuỗi mầu nhiệm
 
Trên một chuyến máy bay quốc tế, một thương gia trẻ tên là Jim Caiso ngồi kề bên Mẹ Têrêsa và một Nữ Tu khác. Jim Caiso nhận ra ngay khuôn mặt của người Nữ Tu thường được báo chí nhắc đến. Khi những người khách cuối cùng đã yên vị trên máy bay thì Jim thấy hai người Nữ Tu từ từ rút một tràng chuỗi ra khỏi áo và lâm râm cầu kinh. Tuy không phải là một người Công Giáo sùng đạo nhưng Jim cũng cảm thấy bị lôi cuốn bởi cách cầu kinh của hai người Nữ Tu.
 
Khi máy bay đã lên khá cao, Mẹ Têrêsa quay nhìn người thanh niên và hỏi: “Anh có thường lần chuỗi không ?” Anh trả lời: “Thưa không ạ”.
 
Anh vừa trả lời thì Mẹ cầm tay anh, trao cho anh tràng chuỗi Mai Khôi rồi mỉm cười nói: “Vậy thì anh hãy bắt đầu lần chuỗi từ hôm nay nhé…”
 
Ra khỏi phi trường, Jim vẫn còn cầm trên tay tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta. Về tới nhà, anh kể lại cho vợ nghe cuộc gặp gỡ với Mẹ Têrêsa và kết luận: “Anh có cảm tưởng như mình đã gặp một Nữ Tu đích thực của Chúa”.
 
Chín tháng sau, vợ chồng Jim đến thăm một người bạn thân lâu năm. Chị này bác sĩ cho biết đã bị ung thư tử cung giai đoạn cuối, nhiều phần nguy tử. Nghe thế, Jim đưa tay vào túi quần, rút ra tràng chuỗi Mai Khôi của Mẹ Têrêsa Calcutta và trao cho chị ấy. Anh nói: “Chị cầm lấy chuỗi này nhé, chị sẽ được cứu giúp…” Mặc dù không phải là người Công Giáo, chị bạn này vẫn mở rộng bàn tay ra và trân trọng đón nhận món quà qu‎ý giá ấy.
 
Một năm sau gặp lại vợ chồng Jim, người bạn vui vẻ cho biết chị đã mang trong mình tràng chuỗi suốt năm qua và giờ đây trao lại cho Jim để may ra có thể còn giúp đỡ cho một người khác nữa.
 
Đúng thời gian đó, người chị vợ của Jim đang bị khủng hoảng sau cuộc ly dị, bà cũng muốn được mượn tràng chuỗi của Jim. Sau này bà kể lại rằng: “Hằng đêm, tôi đeo chuỗi vào người. Tôi rất cô đơn và sợ hãi, nhưng khi mang chuỗi vào người, tôi cảm thấy như đang cầm lấy một bàn tay thân yêu…”
 
Tràng chuỗi mầu nhiệm ấy không mấy chốc đã được trao từ tay người này đến người khác. Mỗi khi gặp khủng hoảng hay bệnh tật, người ta thường gọi điện thoại đến Jim để mượn cho bằng được tràng chuỗi ấy.
 
Jim suy nghĩ: phải chăng tràng chuỗi có một sức mạnh lạ lùng, hay đúng hơn, sức mạnh tinh thần được canh tân nơi tất cả những ai mượn tràng chuỗi ấy. Jim chỉ biết rằng, hễ có ai ngỏ ý mượn tràng chuỗi, anh luôn đáp trả một cách vui vẻ, và lần nào anh cũng căn dặn: “Khi nào không cần nữa cho tôi xin lại. Có thể sẽ có người khác cần đến”.
 
Cuộc sống của Jim cũng thay đổi kể từ cuộc gặp gỡ đó với Mẹ Têrêsa Calcutta. Khi Jim nhớ lại rằng: Mẹ Têrêsa mang tất cả hành lý của Mẹ trong một túi xách tay nhỏ, anh cũng cảm thấy được thôi thúc để làm cho cuộc sống của anh được đơn giản hơn.
 
Jim nói: “Tôi luôn cố gắng nhớ rằng: điều quan trọng trong cuộc sống không phải là tiền bạc, danh vọng mà chính là Tình Yêu chúng ta dành cho người khác…”

 



THỨ HAI -

Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.

THỨ BA - CON NGƯỜI ĐẾN ĐỂ CỨU CHỮA
 
Lời Chúa: Lc 9, 51-56
 
Vì gần tới thời gian Chúa Giêsu phải cất khỏi đời này, Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem, và sai những người đưa tin đi trước Người.
 
Những người này lên đường vào một làng Samaria để chuẩn bị mọi sự cho Người. Nhưng ở đó người ta không đón tiếp Người, bởi Người đi lên Giêrusalem. Thấy vậy, hai môn đệ Giacôbê và Gioan thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy muốn chúng con khiến lửa bởi trời xuống thiêu huỷ chúng không?”
 
Nhưng Người quay lại, quở trách các ông rằng: “Các con không biết thần trí nào xúi giục mình. Con Người đến không phải để giết, nhưng để cứu chữa người ta." Và các Ngài đi tới một làng khác.
 

TRUYỆN KỂ
 
1. Tấm lòng nhân ái tuyệt vời.
 
Nhiều năm về trước – một ủy viên chấp hành khá cao tuổi của một tập đoàn dầu lửa Rochefeller ở Mỹ - đã đưa ra một quyết định sai lầm làm công ty thiệt hại hơn hai triệu đôla. John D. Rochefeller lúc đó là người đứng đầu công ty.
 
Bedford được Rochefeller mời lên văn phòng. Bedford đến rất đúng giờ và sẵn sàng để nghe những lời chỉ trích có thể nặng nề của Rochefeller.
 
Khi Bedford bước vào phòng, ông vua dầu hỏa đang ngồi cạnh bàn, chăm chú viết bằng bút chì lên một tờ giấy. Bedford đứng yên lặng, không muốn phá ngang. Sau vài phút, Rochefeller ngẩng lên.
 
- A, anh đấy à, Bedford – Rochefeller nói rất chậm rải – Anh đã nghe tin những tổn thất của công ty chúng ta rồi chứ?
 
Bedford đáp rằng tôi đã biết rồi.
 
- Tôi đã suy nghĩ rất nhiều về điều này, - Rochefeller nói,- Và trước khi nói chuyện với anh, tôi đã ghi ra đây vài dòng.
 
Sau này, Bedford kể lại cuộc nói chuyện của ông với Rochefeller như sau: Tôi thấy rõ dòng đầu tiên của tờ giấy mà ông chủ đã “ghi vài dòng” là “những ưu điểm cùa Bedford." Sau đó là một loạt những đức tính của tôi, kèm theo là miêu tả vắn tắt rằng tôi đã giúp công ty, đưa ra quyết định đúng đắn được ba lần, giúp công ty kiếm được gấp nhiều lần số tiền tổn thất lần này.
 
Bedford không bao giờ quên bài học ấy. Ông đã ghi khắc những điều đó trong lòng và đem ra áp dụng trong những ngày làm việc còn lại của ông.
 
2. Để bớt đổ vỡ
 
Một Cha sở già kia có nhiều kinh nghiệm thường khuyên các đôi tân hôn như sau: “Khi các con thấy trong nhà sắp xảy ra cãi vã, các con hãy nói với nhau: “Để sáng mai rồi hãy gây gỗ." Sáng hôm sau các con sẽ thấy rằng việc hôm qua thật là nhỏ nhoi không đáng gây gỗ chút nào.
 
"Khi các con sắp có chuyện cãi vã, chúng con hãy ngậm hoài một ngụm nước lạnh cho đến khi ngụm nước nóng lên. Rồi cứ tiếp tục ngậm ngụm nước khác. Làm như thế các con sẽ bớt được những xô xát đổ vỡ trong gia đình.
 
3. Chạy ba vòng
 
Ở Tây Tạng xưa kia có một người tên là Ái Địa Ba, mỗi khi tức giận tranh chấp với người khác, anh đều chạy về nhà với tốc độ rất nhanh, chạy xung quanh ngôi nhà và mảnh đất của mình ba vòng, sau đó ngồi xuống bờ ruộng thở dốc.
 
Ái Địa Ba làm việc vô cùng siêng năng. Nhà của anh ta càng ngày càng to, đất đai của anh ta càng ngày càng rộng lớn, nhưng cho dù nhà có to và đất có rộng bao nhiêu đi nữa, thì nhưng khi tức giận với một người nào đó, anh vẫn chạy quanh nhà và mảnh đất của mình ba vòng.
 
Tại sao Ái Địa Ba mỗi lần tức giận đều chạy quanh nhà và mảnh đất ba vòng? Tất cả những người quen biết anh đều cảm thấy nghi hoặc, nhưng cho dù hỏi gì, anh đều không muốn giải thích.
 
Cho đến một ngày nọ, Ái Địa Ba đã trở thành một ông cụ rất già, ngôi nhà và mảnh đất của ông bây giờ cũng đã quá rộng lớn, khi tức giận, ông vẫn chống gậy vất vả đi xung quanh ngôi nhà và mảnh đất của mình, sau khi hoàn thành ba vòng một cách khó khăn, mặt trời cũng đã lặn xuống núi, Ái Địa Ba một mình ngồi trên bờ ruộng thở dốc, cháu ông đến bên cạnh nài nỉ:
 
- Ông ơi, tuổi ông đã cao, những người hàng xóm quanh đây cũng không có ai có đất đai rộng lớn bằng ông, ông không thể giống như lúc trước được, mỗi khi tức giận đều chạy quanh mảnh đất! Ồng có thể nói cho cháu biết bí mật này không, tại sao mỗi khi tức giận ông đều chạy quanh mảnh đất ba vòng?
 
Trước sự nài nỉ của đứa cháu, Ái Địa Ba cuối cùng cũng phải nói ra bí mật trong lòng mình suốt nhiều năm nay:
 
- Khi trẻ, mỗi khi ông cãi cọ, tranh luận, tức giận một ai đó ông đều chạy ba vòng quanh mảnh đất của mình, vừa chạy vừa suy nghĩ, ngôi nhà của mình nhỏ như vậy, đất đai của mình nhỏ như vậy, mình làm gì có thời gian và tư cách để tức giận mọi người. Khi nghĩ đến đây, bao nhiều tức giận đều tan biến hết, ông dành tất cả thời gian nỗ lực làm việc.
 
Đứa cháu hỏi:
 
- Ông à, vậy bây giờ ông đã lớn tuổi rồi, cũng đã trở thành một người giàu có, tại sao ông vẫn còn chạy như thế?
 
Ái Địa Ba cười nói:
 
- Phải. Bây giờ, tuy ta đã già nhưng nhiều khi vẫn có thể tức giận, khi tức giận thì chạy ba vòng, vừa chạy vừa suy nghĩ, nhà của ta thật to, đất đai của ta thật rộng lớn, ta hà tất tính toán với người khác làm gì cho mệt? Nghĩ đến đây, bao nhiêu tức giận đều tan biến cả.
 
4. Lý do người Samari không đón tiếp Chúa
 
Sở dĩ dân Samari không đón tiếp Đức Giêsu và các môn đệ, cũng có nghĩa là họ không muốn theo Đức Giêsu đi dâng Lễ ở Giêrusalem, vì mối thù truyền kiếp khai mào từ thời lưu đày bên Babylon:
 
- Năm 721 trước Công nguyên, vua Assur bắt dân Israel ở Samari đi lưu đày, và cho dân ngoại đến Samari sinh sống. Những người Do Thái còn lại, họ đã xây Đền Thờ kính Chúa ở núi Garizim trong miền Samari. Như thế là chống lại truyền thống cha ông họ xưa nay vẫn tôn thờ Thiên Chúa ở Giêrusalem! Lúc đó đền thờ Giêrusalem vẫn còn, mãi đến 134 năm sau, tức là vào năm 587 trước Công nguyên, đền thờ Giêrusalem mới bị phá (x Is 40-55).
 
- Năm 539 trước Công nguyên, những người Do Thái lưu đày từ Babylon được vua Cyros cho họ hồi hương tái thiết Đền Thờ Giêrusalem (x Is 45), thì lại bị dân ở Samari gây khó dễ, vì họ chỉ muốn mọi người thờ Chúa ở Garizim.
 
- Năm 200 trước Công nguyên, những người thờ Chúa ở Giêrusalem lại kéo đến Garizim đập phá Đền Thờ của người Do Thái ở Samari!
 
Đó là lý do khi những người Do Thái ở Samari thấy Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài muốn ghé lại Samari, rồi mới tiếp tục lên Giêrusalem dự Lễ, thì dân vùng này không đón tiếp!
 
5. Ăn miếng trả miếng
 
Một cô gái lên tàu, nhìn thấy chỗ của mình đã bị một chàng trai ngồi, cô gái kiểm tra lại vé của mình thêm một lần nữa, rất lễ phép nói với chàng trai:
 
- Thưa anh, anh đã ngồi nhầm vị trí rồi ạ!
 
Chàng trai giơ tờ vé ra :
 
 Nhìn kỹ đi, đây là chỗ của tôi, cô mù à!
 
Cô gái nhìn kỹ tờ vé của chàng trai, im lặng không nói, lặng lẽ đứng bên cạnh chàng trai.
 
Một lát sau đoàn tàu bắt đầu từ từ rời ga, cô gái cúi đầu nhẹ nhàng nói với chàng trai
 
- Thưa anh, ghế anh ngồi không sai, nhưng anh ngồi nhầm tàu rồi ạ!
 
6. Thế giới cần chứng nhân
 
Một tư tế đạo Bà la môn nói với một vị thừa sai Kitô giáo ở Ấn độ rằng: “Nếu như các Kitô hữu giống như cuốn Kinh thánh của Ngài, thì Ngài có thể chinh phục Ấn độ trong năm năm.” Nói khác đi, nếu chúng ta sống những điều Kinh thánh dạy, chúng ta sẽ hoán cải người Ấn một cách nhanh chóng. Đó là chứng từ mà Thiên Chúa nói đến trong bài đọc hôm nay. Đó cũng là chứng từ khiến người ta phải nói với chúng ta “Chúng tôi muốn biết nhiều hơn về Thiên Chúa của các bạn.”
 
Bài đọc hôm nay mời gọi tôi xin được sửa chữa bất cứ gì ngăn cản tôi là người khác đến với tôi: “Chúng tôi muốn biết nhiều hơn về Thiên Chúa của bạn.”
 
Có hai cách truyền ánh sáng, đó là ánh nến và gương phản chiếu ánh sáng đó (Edith Wharton).
 
7. Nóng giận là làm nô lệ
 
Phản ứng nóng nảy của Giacôbê và Gioan trong bài đọc hôm nay, chứng tỏ các ông chưa quán triệt lời này của Chúa Giêsu: “Hãy học cùng Thầy vì thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11, 29).
 
Có bao giờ tôi đã đáp trả cách bực tức khi bị người khác xử tệ chưa? Lúc này, tôi giải quyết cách xử tệ đó ra sao?
 
Khi chúng ta ghét bỏ kẻ thù, chúng ta cho họ được quyền trên chúng ta: quyền trên giấc ngủ, quyền trên sức khỏe và quyền trên sự bình an của tâm trí chúng ta. Chắc hẳn kẻ thù sẽ nhảy mừng nếu họ biết rằng sự thù ghét đang giết dần giết mòn chúng ta, nhưng chẳng hề làm thương tổn họ.
 
8. Giận mất khôn
 
Một con rắn bò vào một cửa hàng bán đồ làm mộc và bò đến góc nhà. Khi bò ngang qua một cái cưa, nó vô tình bị lưỡi cưa làm bị thương. Lập tức, nó quay lại và cắn cái cưa. Càng cắn, nó lại càng bị thương ở miệng.
 
Sau đó, không hiểu chuyện gì đã xảy ra, nghĩ rằng cái cưa đang tấn công mình, nó quyết định quấn lấy cái cưa với ý định làm cho cái cưa ngạt thở với toàn bộ sức mạnh của mình. Thật không may, con rắn cuối cùng bị chết bởi một cái cưa vô tri vô giác.
 
Đôi khi, chúng ta phản ứng với sự giận dữ với ý định sẽ làm tổn thương những người đã đối xử tệ với mình nhưng thực ra chúng ta đã làm tổn thương chính bản thân mình.
 
Trong cuộc sống, có những lúc tốt hơn là mặc kệ sự việc có tồi tệ ra sao, là con người đừng nghĩ đến thù hận và sự đáp trả. Bởi vì hậu quả khi đã xảy ra là không thể đảo ngược và thảm khốc. Tốt hơn là luôn ứng xử với họ bằng thái độ ôn hoà, và tình yêu thương nhân hậu mặc dù phải nỗ lực rất nhiều...!
 
Hãy làm chủ cảm xúc của mình, đừng để bản thân chỉ vì một tình huống, chỉ một câu nói của người khác mà làm hỏng tâm tình, hỏng việc của mình. Một phút nóng giận, ân hận cả đời.
 
9. Mãnh hổ và chó điên
 
Một con hổ nhìn thấy một con chó điên, nó vội vã tránh ra thật xa. Hổ con nói với bố: "Bố ơi, bố dám đấu với sư tử, dám tranh hùng với báo săn, vậy mà lại phải tránh một con chó điên, thật mất mặt quá!"
 
Hổ bố hỏi: "Theo con, đánh bại một con chó điên có vinh quang không?"
 
Hổ con lắc đầu.
 
"Để con chó điên cắn phải một nhát, có đen đủi không?"
 
Hổ con gật gật đầu.
 
"Đã như vậy, chúng ta việc gì phải động chạm đến một con chó điên? – Không phải người nào cũng có thể coi làm đối thủ của con, không nên tranh biện với những người không có tố chất, cứ mỉm cười một cái rồi tránh thật xa, đừng để họ cắn được con.
 
Điều này nhất định con phải nhìn cho thấu đáo, bởi lẽ trong thực tế cuộc sống này, vẫn có rất nhiều người đang đấu với chó điên mà không ý thức được vấn đề."
 
Tôi cũng thế nếu tôi dị ứng với đức mến được thánh Phalô trình bày hết sức rõ ràng: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả.” (1Cr 13,4-7)
 
10. Tự sát vì dục vọng
 
Người Eskimo ở bắc cực nghĩ ra một cách bẫy chó sói rất độc đáo để lấy bộ da chúng làm y phục.
 
Người ta dùng một con dao cực bén và nhúng lưỡi dao ấy vào máu súc vật, rồi đem dang ra ngoài trời tuyết lạnh cho máu đông lại chung quanh. Họ lặp lại động tác đó nhiều lần cho đến khi con dao được bọc quanh bằng khối máu đông, lớn như quả xoài.
 
Đợi đến khi trời tối, thợ săn đem con dao bọc máu đó ra cắm giữa đồng hoang. Với tài đánh hơi bén nhạy, loài sói khát máu sẽ nhanh chóng phát hiện mùi máu tươi và sẽ chạy đến đua nhau liếm tới tấp vào cục máu đông đó cho đến khi lưỡi dao lộ ra cứa đứt lưỡi chúng. Một khi lưỡi của bầy sói bị cứa đứt nhiều đường, máu từ lưỡi ứa ra và chúng tiếp tục liếm cách điên cuồng hơn chính dòng máu của chính mình chảy ra mà không hay biết. Càng liếm hăng, lưỡi chúng càng bị cứa sâu hơn và nhiều hơn khiến máu chảy thành dòng… kết thúc cuộc đời lũ sói tham ăn.


11Chiến lược nhu mì
 
“Ngài nhất quyết đi lên Giêrusalem!”.
 
Sau nội chiến, miền Nam Hoa Kỳ đã rơi vào thế ‘bên thua cuộc’; đột nhiên, Abraham Lincoln muốn được đàm phán. Điều này khiến cho nhiều tướng lãnh bất bình. Một người giận dữ, đập bàn nói, “Quân địch nhất định phải bị tiêu diệt!”. Tổng thống ôn hoà lên tiếng, “Kẻ địch bị tiêu diệt khi họ trở thành bạn của chúng ta!” Cuộc chiến kết thúc với câu nói bất hủ của ông, “Trong nội chiến, không có người thắng!”.
 
“Trong nội chiến, không có người thắng!”. Sẽ rất thú vị khi Tin Mừng hôm nay được đọc dưới nhãn quan của một nhà quân sự. Như vị tướng tài, Chúa Giêsu chỉ huy trận mạc cuối cùng, trận Giêrusalem! Tuy nhiên, chiến lược của Ngài không giống bất cứ ai, một chiến lược mà Ngài cương quyết áp dụng, ‘chiến lược nhu mì’, chiến lược yêu thương!

 



THỨ TƯ - ĐIỀU KIỆN THEO CHÚA GIÊSU
 
Lời Chúa: Lc 9, 57-62
 
Khi ấy, đang lúc Chúa Giêsu và các môn đệ đi đường, thì có kẻ thưa người rằng: "Dù Thầy đi đâu, tôi cũng sẽ theo Thầy." Chúa Giêsu bảo người ấy rằng: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có nơi gối đầu."
 
Người bảo một kẻ khác rằng: "Hãy theo Ta." Người ấy thưa: "Xin cho phép tôi đi chôn cha tôi trước đã." Nhưng Người đáp: "Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa."
 
Một người khác thưa Người rằng: "Lạy Thầy, tôi sẽ theo Thầy, nhưng cho phép tôi về từ giã gia đình trước đã." Nhưng Chúa Giêsu đáp: "Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa."
 

TRUYỆN KỂ
 
1. Ðiều kiện theo Chúa
 
Một linh sư Ấn đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông, có một người đàn ông nọ muốn xin làm đệ tử. Ông rón rén đến bên vị linh sư và đặt dưới chân vị tu hành hai viên ngọc quí nhất như của lễ ra mắt. Vị linh sư mở mắt ra, nhưng ông không để lộ một chút thích thú nào; không cần nhìn kỹ vào món quà quí giá ấy, vị linh sư cầm lấy một viên và ném xuống dòng sông.
 
Tiếc của, người đàn ông giầu có liền nhảy xuống sông để cố tìm lại viên ngọc, nhưng mất một ngày mà ông không tài nào tìm lại được. Chiều đến, mệt mỏi, chán nản, người đàn ông đến vị linh sư xin chỉ rõ nơi đã ném viên ngọc quí. Vị linh sư cầm viên ngọc còn lại ném xuống dòng sông và nói: "Ta đã ném vào chỗ đó, ngươi hãy lặn xuống mà tìm lại."
 
Chúa Giêsu cũng đòi hỏi môn đệ Ngài một thái độ từ bỏ và dứt khoát như thế. Thánh Luca trình bày cuộc đời Chúa Giêsu là một hành trình lên Giêrusalem mà đích điểm là cái chết trên thập giá.
 
2. Đường đến hạnh phúc
 
Theo truyện thần thoại của Hy Lạp, Hercule là một vị thần, một lần đứng giữa ngã ba đường và tự hỏi xem mình nên đi về đâu. Có hai người chỉ cho ông.
 
Một người nói: “Hãy theo tôi, đây là con đường thoải mái, hạnh phúc và lối đi dễ dàng."
 
Người thứ hai nói: “Đây là con đường cố gắng, nỗ lực, khó khăn. Tuy là đường khó khăn, nhưng đưa tới hạnh phúc."
 
Hercule đã chọn con đường khó khăn và quả thực ông khôn ngoan, ông đã thành công.
 
3. Phải dứt khoát từ bỏ.
 
Một nhà buôn ở Francfurt muốn tìm một em bé trai để lo việc giao hàng. Có một người anh trưởng trong một gia đình gồm 07 người anh em 16 tuổi đến xin việc. Nhân viên tiếp tân ở phòng khách gật đầu nói: ”Cậu không có nhiều may mắn lắm đâu. Trước cậu đã có 52 người đến xin việc rồi. Tuy nhiên, cậu có thể thử thời vận."
 
Nhân viên này dẫn cậu vào phòng ông chủ. Ông chủ tiếp chuyện thân mật với ứng viên, đặt nhiều câu hỏi với chàng trai.
 
- Mời cậu một điếu.
 
- Cám ơn ông, nhưng cháu không hút thuốc.
 
- Thế nào? Cậu không hút thuốc ư? Nhưng anh bạn của tôi ơi, để làm một người lớn, cần phải biết hút thuốc. Đừng rồ dại nữa!
 
- Không. Cháu cám ơn bác. Cho đến nay cháu vẫn không hút thuốc và cháu cũng không muốn bắt đầu.
 
Thế rồi ông chủ chìa tay ra cho anh.
 
- Tôi nhận cậu vào làm việc. Cậu là người thứ 53 đến gặp tôi xin việc, nhưng cậu lại là người đầu tiên không nhận điếu thuốc. Cậu thích hợp với tôi.
 
Và ném điếu thuốc đi, ông nói thêm: - Tôi cũng vậy, tôi không hút thuốc.
 
Sau đó, chàng trai được biết rằng người làm công trước đã bị sa thải vì anh ta hút thuốc quá nhiều và đã thâm hụt thụt quỹ để mua thuốc.
 
4. Cả nhà đi tu
 
Hai vợ chồng nhà báo người Hà Lan tên là Val Der Meer de Walcheren đã cùng xin chịu Bí tích Thánh tẩy vào năm 1911 để gia nhập Giáo Hội Công giáo. Sau đó, ông bà đã lần lượt khuyên các con cùng theo đạo, rồi lại cùng lần lượt theo đuổi ơn gọi Tận Hiến của các dòng tu. Người con trai lớn sau này trở thành một linh mục dòng Biển đức Nam (Bénédictin), người con gái kế làm nữ tu trong đan viện Biển đức nữ (Bénédictine).
 
Năm 1933, nhờ lòng khao khát tuyệt đối và ý chí tận hiến cho Chúa, Tòa Thánh đã chấp thuận đơn xin của hai ông bà để được phép chia tay nhau trong lòng mến đích thật. Ông xin được vào dòng Biển đức nam, nơi người con trai linh mục vừa sớm lìa đời, còn bà thì xin vào dòng Biển đức nữ chung với người con gái.
 
Trong thời kỳ tập tu, Bề Trên cả hai dòng chỉ định cho ông bà phải tiếp tục thường xuyên thư từ cho nhau. Sau hai năm, cả hai ông bà vẫn đầy thiện chí, sẵn sàng hy sinh dâng mình cho Chúa. Thế nhưng, Bề Trên của hai bên đều nhận thấy mối duyên tình của ông bà còn quá khăng khít, nên đã khuyên cả hai trở về với đời sống gia đình. Ông bà vâng lời trở về, tiếp tục sống hạnh phúc bên nhau, chan hòa lòng yêu thương bác ái đối với tha nhân, nhất là với những người nghèo khổ.
 
Đến năm 1954 thì bà Val Der Meer de Walcheren qua đời. Nối lại ý hướng từ 20 năm về trước, cụ ông 74 tuổi đã xin trở lại tu viện. Và vào ngày 22.12.1956, cụ được thụ phong linh mục tại nhà nguyện tu viện Đức Mẹ nơi người con gái của cụ vẫn đang sống cuộc đời đan tu gương mẫu đã hơn 40 năm qua.
 
5. Một bước thay đổi cuộc đời
 
Vào một ngày đẹp trời, ở một thôn nhỏ trên cao nguyên hẻo lánh, bỗng xuất hiện một chiếc xe con bóng nhoáng. Đây là chuyện hiếm thấy đối với một thôn nhỏ chưa từng nghe thấy tiếng động cơ ôtô. Hầu hết những người dân trong thôn đều chạy ra khỏi nhà, xúm quanh chiếc xe để xem có chuyện gì lạ xảy ra.
 
Khi cánh cửa xe được mở ra, có vài người bước xuống. Một người đàn ông trung niên đầu cắt trọc, mặc một bộ quần áo rằn ri cất tiếng hỏi:
 
- Có ai muốn đóng phim không? Ai muốn đóng phim thì lại đây đăng ký.
 
Tuy mỗi người dân trong thôn đều đã xem phim, nhưng đóng phim như thế nào thì họ biết rất ít. Tại sao lại đến nơi hẻo lánh này quay phim chứ? Đóng phim là đóng như thế nào? Rất nhiều người đều hỏi những người xung quanh hoặc tự lẩm bẩm một mình.
 
Người đàn ông trung niên ấy hỏi lại mấy lần, nhưng không có ai lên tiếng. Lúc đó, một cô bé khoảng mười ba tuổi bước lên trước một bước và nói: - Cháu muốn đóng phim.
 
Đó là một cô gái bình thường với đôi mắt nhỏ, một mí, cặp má đỏ au nhưng ánh mắt và gương mặt của cô toát lên vẻ hiền hậu và quả cảm của những đứa trẻ vùng sơn cước.
 
Người đàn ông trung niên hỏi cô: - Cháu có biết hát không?
 
Cô gái trả lời gãy gọn, dứt khoát: - Có biết.
 
- Vậy cháu hãy hát một bài cho chúng tôi nghe đi!
 
- Hát thì hát? - Cô bé không hề tỏ ra sợ sệt, cô vừa hát vừa nhảy – Đất nước chúng ta là một vườn hoa, những bông hoa trong vườn hoa thật đẹp.
 
Những người dân trong thôn không nhịn được cười, bởi vì giọng hát của cô thật khó nghe, không những sai nhạc, mà đến giữa chừng cô còn quên mất lời bài hát.
 
Nào ngờ, người đàn ông trung niên giơ tay chỉ vào cô: - Được rồi, chúng tôi chọn cháu.
 
Người đàn ông trung niên ấy chính là nhà đạo diễn điện ảnh lừng danh Trương Nghệ Mưu, còn cô gái dũng cảm bước về phía trước một bước ấy là Ngụy Mẫn Chi, nữ diễn viên chính trong bộ phim “Một người cũng không thể thiếu."
 
Tuy Ngụy Mẫn Chi chỉ bước lên phía trước một bước, nhưng bước chân ấy đã thay đổi cuộc đời của cô.
 
6. Chọn là chọn
 
Trong thần thoại Hy Lạp có kể truyện về thần Orpheus bị đày xuống trần, được các thần tặng cho cây đàn bảy dây. Tiếng đàn làm nước ngừng chảy, đá vỡ ra, thú dữ biến thành chiên…
 
Orpheus cưới được cô vợ rất xinh đẹp tên là Eurydice, ngày kia nàng bị rắn cắn chết, hồn nàng xuống âm phủ! Orpheus thương nhớ vợ nên đem đàn xuống âm phủ gảy để đưa hồn vợ về. Các thần căn dặn Orpheus: Phải đi sau nàng mà gảy đàn, và các thần cũng dặn dò nàng: Khi nghe tiếng đàn thì cứ đi thẳng đừng ngó lui đằng sau. Nhưng đi được một đoạn, nàng ngó lại xem chồng có theo nàng về không, thế là hồn nàng bị chết muôn đời! Orpheus mãi mãi mất vợ!
 
Thánh Clémenté đã áp dụng truyện này vào việc Tông Đồ:
 
- Orpheus là Chúa Giêsu.
 
- Đàn bảy dây: Bầu đàn là Lời Chúa, bảy dây là bảy Bí tích sẽ biến tội ra ơn, dữ ra lành, chết ra sống.
 
- Eurydice bị rắn cắn: con người bị quỷ làm hại
 
- Chàng đem đàn đến cứu vợ, nhưng vì nàng không nghe lời căn dặn đã quay lại, nên chàng mất vợ: Chúa Giêsu ban Lời và lập Bí tích để cứu ta, nhưng ta không dứt khoát theo Chúa. Chúa khóc vì ta bị diệt (x Ga 11,35 ; Lc 19,41).
 
7. Thầy Giêsu và tôi
 
Tôi nổi giận thì Thầy lại bảo: Hãy nhịn nhục và thứ tha.
Tôi run sợ thì Thầy lại bảo: Hãy can đảm.
Tôi hoài nghi thì Thầy lại bảo: Hãy tín thác.
Tôi bồn chồn không ngơi thì Thầy lại bảo: Hãy tĩnh lặng đi.
 
Tôi thích đi con đường riêng mình thì Thầy lại bảo: Hãy theo Ta.
Tôi muốn lập kế hoạch riêng cho mình thì Thầy lại bảo: Hãy quên đi.
Tôi nhắm tìm của cải vật chất thì Thầy lại bảo: Hãy bỏ lại đằng sau.
Tôi muốn được bảo đảm ở đời này thì Thầy bảo: Phần Ta, Ta chẳng hứa hẹn gì đâu.
 
Tôi thích sống cuộc đời riêng của mình thì Thầy bảo: Hãy từ bỏ chính mình đi.
Tôi nghĩ rằng mình tốt lành thì Thầy bảo: Tốt lành thôi thì chưa đủ đâu con.
Tôi thích làm ông chủ thì Thầy bảo: Hãy quỳ xuống mà phục vụ lẫn nhau.
Tôi muốn ra lệnh cho người khác thì Thầy bảo: Thôi, hãy vâng lời đi.
 
Tôi đi kiếm tìm tri thức thì Thầy bảo: Hãy tin.
Tôi thích sự rõ ràng thì Thầy lại dạy tôi bằng ngụ ngôn.
Tôi thích thi ca mơ mộng thì Thầy lại nói toàn chuyện hiện thực.
Tôi yêu sự yên tĩnh của mình thì Thầy lại muốn tôi bị quấy rầy.
 
Tôi thích bạo lực thì Thầy lại bảo: Bình an ở cùng các con.
Tôi rút gươm ra thì Thầy bảo: Vứt nó ngay lập tức.
Tôi nghĩ chuyện trả thù thì Thầy bảo: Đưa má bên kia cho người ta đánh luôn đi con.
Tôi nói về một trật tự thì Thầy bảo: Ta đến đem gươm giáo.
 
Tôi căm ghét thì Thầy bảo: Thôi, hãy yêu thương cả kẻ thù nhé.
Tôi muốn gieo sự hòa hợp thì Thầy nói: Ta đem lửa xuống thế gian.
Tôi muốn làm người lớn thì Thầy nói: Hãy trở nên trẻ nhỏ.
Tôi muốn ẩn thân, Thầy bảo: Ánh sáng thì phải chiếu rọi.
 
Tôi đi tìm chỗ nhất trong hội đường, Thầy lại bảo: Xuống chỗ chót hết mà ngồi.
Tôi thích được quan tâm, Thầy nói: Đóng cửa lại mà cầu nguyện.
 
Không, tôi không thể hiểu nổi ông Thầy Giêsu này, Ông khiêu khích tôi, ông làm tôi bối rối.
 
Cũng giống như nhiều học trò khác, tôi rất muốn đi theo Thầy Giêsu này. Thế nhưng, khổ quá! Chắc là phải đi tìm ông thầy khác thì sẽ khá hơn, ít đòi hỏi hơn và lại có nhiều quyền lợi hơn.
 
Nhưng cuối cùng, tôi đã cảm nhận như anh trưởng Phêrô đã thốt lên: "Tôi không biết ai khác lại có được Lời ban Sự Sống đời đời như Thầy Giêsu của tôi." Amen.
 
8. Ở cùng Chúa luôn
 
Một cách cầu nguyện mà thánh Têrêsa Avila sử dụng, đó là chỉ đứng một cách cung kính và thinh lặng trước mặt Thiên Chúa. Khi đề nghị cách thức cầu cầu nguyện này cho người khác, thánh nữ viết: “Hãy tưởng tượng như Thiên Chúa ở bên bạn. Hãy ở cùng người bạn này càng lâu càng tốt… Bạn chẳng cần phải quan tâm đến việc trò chuyện.”
 
Cách thức này hiệu quả ra sao đối với tôi?
 
Hãy năng nghĩ đến Thiên Chúa, ngày và đêm, trong công việc và ngay cả lúc giải trí. Thiên Chúa luôn ở gần và ở với bạn, bạn đừng để Ngài một mình. Thật bất lịch sự khi để người đến thăm bạn lẻ loi một mình. (Lawrence)
 
9. Đừng ngoái lại sau lưng
 
Vào năm 1954, sau khi Roger Bannister của Anh quốc phá được kỷ lục bốn phút một dặm, thì John Landy của Úc cũng phá được kỷ lục như thế. Điều này buộc hai đấu thủ phải thực hiện một cuộc chạy đua ở Canada. Khi hai đấu thủ cố sức ở cự li cuối cùng. Landy chợt nhìn lại sau một chút để xem Bannister gần mình đến đâu. Bắt được cơ hội ngàn vàng này, Bannister đã bứt phá và vượt qua Landy để dành chiến thắng.
 
Đã bao giờ tâm trí tôi đặt câu hỏi hoặc do dự trong quyết định theo Chúa gần gũi hơn chưa? Khi nào? Tại sao?
 
Thiên Chúa không kêu gọi tôi thành công, nhưng Ngài kêu gọi tôi tin tưởng. (Mẹ Têrêsa)
 
10. Không chỗ tựa đầu
 
Nhà thơ Bàng Bá Lân đã thi vị hóa cảnh nhà dột như sau: “Bốn bề gió lạnh vào thăm, Ba gian mưa uớt biết nằm nơi nao? Dế ngâm thơ ở khe nào, Bảo cho ta biết ta vào trú mưa.” Dù vậy, có một mảnh đất, cất một mái nhà nho nhỏ vẫn là mơ uớc ngoài tầm tay của rất nhiều người, nhất là những anh chị em nhập cư ở các thành phố lớn. Quyền được có nhà ở là một quyền cơ bản của con người như con thú có hang, con chim có tổ. Đức Giêsu đã từ khước quyền lợi ấy và chia sẻ kiếp người cùng đinh nhất: chỗ tựa đầu của Ngài lúc chào đời là máng cỏ dành cho súc vật; khi rao giảng Tin Mừng là khoang thuyền của ngư dân nghèo; lúc lìa đời là thập giá của tử tội. Ngài cũng muốn có một mái nhà để “an cư lạc nghiệp” chứ! Thế nhưng, Ngài từ khước nhu cầu cơ bản ấy vì mục tiêu cao cả hơn: để loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa.
 
Đi đạo hay theo Chúa Giesu là chấp nhận đi theo bước chân, con đường Ngài đã đi. Vì thế, khi nào bạn sẵn sàng đón nhận những mạo hiểm, bấp bênh, giảm bớt những chỗ tựa đầu để có thể sống Lời Chúa, bạn đang thật sự là môn đệ chân truyền của Ngài.
 
Xem xét chỗ tựa đầu nào đang trói buộc, không cho tôi tích cực sống những giá trị của Tin Mừng (những thói quen hưởng thụ, những tiện nghi không thực sự cần thiết...) và từ bỏ để loan báo Tin Mừng cách tích cực hơn.



THỨ NĂM - SAI BẢY MƯƠI HAI NGƯỜI RAO GIẢNG
 
Lời Chúa: Lc 10, 1-12
 
Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới.
 
Người bảo các ông rằng: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. Này Thầy sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: "Bình an cho nhà này." Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.
 
"Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: "Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi." Khi vào thành nào mà người ta không tiếp đón các con, thì hãy ra giữa các phố chợ và nói: "Cả đến bụi đất thành các ngươi dính vào chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin phủi trả lại các ngươi. Nhưng các ngươi hãy biết rõ điều này: Nước Thiên Chúa đã đến gần." Thầy bảo các con, ngày ấy, thành Sôđôma sẽ được xử khoan dung hơn thành này."
 

TRUYỆN KỂ
 
1. Tiền của và Hạnh phúc
 
Có một nhà hiền triết đến nghỉ hè tại một thành phố nọ; ông vua của đô thị này thường tự hào mình là người giàu có nhất trần gian. Vốn là người siêu thoát mọi của cải trần thế, nhà hiền triết quyết định đến gặp cho được con người khoe khoang này. Khi nhà hiền triết vừa đến cung điện, nhà vua liền đưa ông đi một vòng và cho ông thấy tất cả sự giàu sang của mình. Nhà vua hỏi một cách huênh hoang:
 
Nhà ngươi nghĩ gì về tất cả sự giàu có của ta?
 
Nhà hiền triết cúi đầu giữ im lặng. Nhà vua lại hỏi tiếp:
 
Theo nhà ngươi, thì ai là người hạnh phúc nhất trần gian này?
 
Nhà hiền triết suy nghĩ một lúc rồi kể tên của những người Hy lạp mà có lẽ không ai biết đến, kể cả nhà vua. Nhận ra thái độ khiêu khích của nhà hiền triết, nhà vua liền nổi giận; ông yêu cầu nhà hiền triết phải giải thích ngay về thái độ ấy. Lúc bấy giờ, nhà hiền triết mới thong thả nói:
 
Thưa ngài, không ai có thể được xem là hạnh phúc, khi trái tim người đó còn gắn bó với của cải vật chất. Ðiều này cũng giống như một cuộc hôn phối, của cải vật chất qua đi, người có của sẽ thành một người góa, mà người góa thì đương nhiên sẽ khóc lóc; hoặc giả như người có của cải qua đi, người đó cũng chẳng mang theo được một đồng xu nào, lúc đó cũng chỉ có khóc lóc mà thôi.
 
2. Tin vào Thiên Chúa
 
Tướng Carreau bị thương nặng, sắp chết. Sau khi được chịu các phép sau hết, ông cầm lấy thánh giá mà vợ ông đã mang vào cổ ông, nói với các bạn binh sĩ của ông:
 
“Các bạn hãy can đảm lên! Giữa các sự cực nhọc và đau khổ của mình, các bạn đừng quên rằng cuộc đời là vắn vỏi và ta thật vô phúc nếu khi chết, ta thấy rằng ta đã không hiểu biết, đã không thờ lạy và đã không bênh vực Chúa Giêsu."
 
3. Truyền giáo là việc cấp thiết
 
Thánh Phanxicô Xavier sinh ra tại Tây Ban Nha chỉ ít lâu sau khi tìm ra Châu Mỹ. Hồi còn là sinh viên ở trường đại học Pari, ngài nghe được lời mời gọi trở thành linh mục và sau đó ngài đã thành một nhà truyền giáo ở Ấn Độ. Một trong những lá thư của ngài từ Ấn độ vang vọng lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay. Đây là một phần của lá thư: “Nơi đây, nhiều người không trở nên kitô hữu được chỉ vì một lý do là không có ai sẳn sàng đảm nhận sứ mạng dạy dỗ cho họ về Chúa. Tôi thường nghĩ đến việc đi tới trường đại học ở Âu Châu và kêu gọi những người thợ đến thu hoạch vụ mùa ở đây (Ấn Độ).”
 
Tôi có thể làm gì để giúp thu hoạch vụ mùa trong đời tôi?
 
Lạy Chúa, con đây, Chúa muốn con làm gì? (Thánh Phanxicô Xavier)
 
4. Đôi tay của Chúa.
 
Vào cuối thế chiến thứ hai, để thu phục thiện cảm và tin tưởng của người dân trong làng vừa mới được giải phóng khỏi tay Đức Quốc xã, toán lính thuộc lực lượng đồng mình cố gắng lượm lại từng mảnh vỡ của bức tượng Chúa Giêsu đã được dựng lên ở ở quảng trường trước ngôi nhà thờ nhỏ, trung tâm sinh hoạt của làng quê miền cực nam nước Italia.
 
Sau nhiều ngày cố gắng, toán lính đã gắn lại được gần như toàn bức tượng của Chúa. Nhưng chỉ có đôi tay bức tượng là không thể nào hàn gắn lại được. Vì các mảnh vụn lớp thì bị bể quá nhỏ, lớp thì đã bị nát thành như bụi.
 
Sau nhiều giờ bàn luận và gần như sắp quyết định bỏ dở công việc, thì một người trong toán lính có sáng kiến tìm lấy hai khúc gỗ gắn vào nơi hai cánh tay bị bể nát của bức tượng, rồi viết vào đó một hàng chữ bất hủ, không những đánh động được tâm hồn những người dân trong làng, mà còn thu hút được nhiều khách du lịch đến vùng này để được tận mắt xem hàng chữ đầy ý nghĩa. Các bạn có thể đoán được hàng chữ này không? Đó là “CHÍNH BẠN LÀ ĐÔI TAY CỦA CHÚA."
 
5. Mang và không mang những gì?
 
Nếu phải thực hiện một chuyến đi dài, tôi sẽ mang theo thứ gì? Chắc chắn là những gì gọn nhất, nhẹ nhất, cần thiết nhất. Và hôm nay, trong lênh truyền của Chúa Giêsu tôi đọc được nét nhẹ nhàng thanh thoát ấy trong bước chân của người môn đệ không giày dép, bao bị, tiền nong...
 
Và phải chăng cũng vang động trong tâm hồn tôi lời mời gọi “ra một cuộc lữ hành”? Nhưng lạy Chúa, khó quá, vì nơi con: Đã quen rồi bóng râm của tiện nghi, an toàn. Đã quen rồi đôi giày của danh vọng. Đã quen rồi chiếc đồng hồ kế hoạch. Đã quen rồi bao bị của bằng cấp, bạc tiền.
 
Lạy Chúa, trên hành trình tiến về nhà Chúa, xin giải thoát con khỏi những ràng buộc của bản thân, của lề thói xã hội, để biết trao ban cho anh em chính Chúa chứ không phải chính con
 
6. Truyền giáo cần dấn thân
 
Một cuộc đánh bom tự sát tại một nhà thờ Anh Giáo ở Peshawa, Pakistan đã khiến trên 80 tín hữu bị chết khi họ vừa ra khỏi nhà thờ sau khi dự lễ Chúa Nhật 22/09/2013. Lý do “đơn giản” là, đại diện nhóm Taliban tổ chức cuộc tấn công đó tuyên bố, vì sự thù địch với Kitô giáo, họ sẽ tiếp tục tấn công cho đến khi không còn người ngoài Hồi giáo nào trên đất Pakistan. Các Kitô hữu vẫn tiếp tục bị thù ghét dưới nhiều hình thức: từ việc bị bách hại, bị xua đuổi “từ thành này sang thành khác” (x. Mt 10,23) đến việc người ta bịt tai trước lời rao giảng. Chúa Giêsu dạy chúng ta phản ứng lại một cách nhẹ nhàng là “phủi bụi chân lại” nhưng vẫn phải kiên quyết loan báo Tin Mừng mà không sợ hãi rằng: “Nước Thiên Chúa đã đến gần.”
 
Nhiều kitô hữu “ngại” nói đến hai tiếng “truyền giáo” hoặc cho rằng việc truyền giáo ngày nay là không phù hợp. Bạn nhớ, bản chất của Giáo hội là truyền giáo (AG 2). Thánh Phaolô cũng đã khuyên Timothê “hãy rao giảng Lời Chúa, lúc thuận tiện cũng như không thuận tiện” (2Tm 4,2).
 
7. Truyền giáo cần biết
 
Theo thống kê thì trên thế giới hiện nay có khoảng 7 tỷ người, và có khoảng 1,5 tỷ người Công giáo. Tại Việt Nam có gần 88 triệu người nhưng chỉ có khoảng hơn 6 triệu tín hữu. Một con số quá chênh lệch mà chính Chúa Giêsu đã nhìn thấy cách đây hơn 2000 năm. “Cánh đồng lúa” của Chúa thì bao la trong khi “thợ gặt” lại quá ít. Chúa đã sai các môn đệ ra đi, làm “thợ gặt” cho Chúa. Những “thợ gặt” này trong khi được sai đi như vậy, phải có bổn phận làm phát sinh nhiều “thợ gặt” khác: “Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người." Giáo Hội đang rất cần những thợ gặt nhiệt thành với sứ mạng rao truyền tình yêu thương của Chúa cho thế giới hôm nay.
 
Truyền giáo không chỉ là làm thế nào để rửa tội cho thật nhiều người. “Thợ gặt” muốn có “lúa” để “gặt” thì trước tiên phải biết gieo giống. Vì thế, bổn phận đầu tiên của “thợ gặt” là làm “những công việc tốt đẹp” như “ánh sáng chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ” nhờ đó “họ tôn vinh Thiên Chúa Cha chúng ta, Đấng ngự trên trời” (x. Mt 5,16). Phải có những hạt giống Tin Mừng đó mới mong trổ sinh một vụ mùa bội thu những người tín hữu Chúa Kitô.
 
Sống trong sự thật, yêu thương cả kẻ thù, tha thứ cho kẻ thù ghét mình, đó là những hạt giống Tin Mừng mà “thợ gặt” Chúa Kitô phải gieo vào trong cuộc sống hằng ngày.
 
8. Hành trang tông đồ
 
Người đi đường cần phải mang theo bao bị, túi xách. Đi càng lâu càng xa, bao bị càng lớn, va li càng to. Vậy mà Đức Giê-su lại căn dặn người môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng không túi tiền giắt lưng, cũng chẳng bao bị, túi xách, va li. Lỡ hết tiền dọc đường chẳng lẽ ngửa tay xin? Không có đồ dùng cá nhân thì lấy gì lo cho những nhu cầu tối thiểu? Cần phải hiểu đúng lời Đức Giê-su: Ngài muốn hành trang người tông đồ phải là hành trang gọn nhẹ, đơn giản hết sức. Đúng hơn nữa, hành trang ấy phải là lòng yêu mến Thiên Chúa, tâm tình nhiệt thành đối với các linh hồn, nhất là đối với những người chưa biết Đức Ki-tô, chưa nghe biết Tin Mừng Nước Trời. Chính lòng yêu mến Chúa và công cuộc Nước Trời mới là hành trang cho sinh hoạt mỗi ngày của những ai muốn làm tông đồ.
 
Hãy ghi nhớ lời Gandhi: “Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa không đủ mạnh.” Bạn sẽ làm gì để lửa yêu mến các linh hồn làm tan chảy sự dửng dưng của bạn đối với công cuộc truyền giáo và sau đó làm tan chảy các tâm hồn khác?
 
9. Thiên đàng ở đâu
 
Trong tác phẩm Nhà Giả Kim, Paulo Coelho đã kể về cậu bé chăn chiên nằm mơ thấy kho báu. Thế là cậu bán hết đàn chiên, thu góp hành trang để đến xứ Ai Cập xa xôi. Nhờ đi ra, cậu đã học được nhiều điều về thế giới, về bản thân, và rốt cuộc cậu tìm được kho báu ngay đúng chỗ trước đây cậu đã nằm mơ. Song bài học lớn nhất là cậu biết đặt niềm tin vào sức mạnh siêu nhiên-sức mạnh luôn thúc đẩy và nâng đỡ cho những ai luôn khát khao truy tìm chân lý.
 
Câu chuyện của Paulo Coelho có thể cho chúng ta có một cái nhìn rõ hơn về Tin Mừng hôm nay. Các môn đệ cũng được sai đi với hai bàn tay trắng, phải đối diện với khó khăn như chiên giữa bầy sói. Thế nhưng, nhờ ra đi hành động cho Chân Lý, các ông đã vượt qua sợ hãi để tìm được niềm vui. Niềm vui không phải bởi việc đã làm, nhưng vì nhận ra được giá trị của sự từ bỏ, sức mạnh nội tại của lòng tin và trên hết là cảm nghiệm Thầy luôn kề bên: Thiên Chúa ở cùng các ông và Bình An của Người lan tỏa nơi các ông.
 
Trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi Giáo Hội nói chung và từng Ki-tô hữu nói riêng cần phải ‘ra đi’ đến những vùng ngoại biên để loan báo Tin Mừng. Bạn nghĩ gì khi nhiều gia đình trẻ của Giáo Hội Hàn Quốc sẵn sàng đến những vùng xa lạ và nghèo khổ để sống làm chứng cho Tin Mừng? Bạn có nghĩ và tin rằng: phải đi ra, bạn mới được biến đổi và tìm được hạnh phúc của mình ngay ở đời này không?



THỨ SÁU - LẮNG NGHE VÀ SÁM HỐI
 
Lời Chúa: Lc 10, 13-16
 
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn cho ngươi, hỡi Corozain, khốn cho ngươi, hỡi Bethsaiđa: vì nếu tại Tyrô và Siđon đã xảy ra những phép lạ thực hiện nơi các ngươi, thì từ lâu, những nơi đó đã mặc áo vải thô và ngồi trên tro bụi mà sám hối. Cho nên trong ngày thẩm phán, Tyrô và Siđon sẽ được nhiêu dung hơn các ngươi. "
 
Còn ngươi nữa, hỡi Capharnaum, phải chăng ngươi sẽ được nâng cao đến tận trời? Ngươi sẽ phải hạ thấp xuống tới địa ngục. "Ai nghe các con, tức là nghe Thầy, và ai khinh dể các con, là khinh dể Thầy. Mà ai khinh dể Thầy là khinh dể Ðấng đã sai Thầy."
 

TRUYỆN KỂ
 
1. Tin vào Thiên Chúa
 
Tướng Carreau bị thương nặng, sắp chết. Sau khi được chịu các phép sau hết, ông cầm lấy thánh giá mà vợ ông đã mang vào cổ ông, nói với các bạn binh sĩ của ông:
 
“Các bạn hãy can đảm lên! Giữa các sự cực nhọc và đau khổ của mình, các bạn đừng quên rằng cuộc đời là vắn vỏi và ta thật vô phúc nếu khi chết, ta thấy rằng ta đã không hiểu biết, đã không thờ lạy và đã không bênh vực Chúa Giêsu."
 
2. Hai triết gia Jacques Maritain và Raissa.
 
Jacques Maritain và Raissa là hai triết gia của nước Pháp vào đầu thế kỷ này. Hồi còn trẻ, hai người đã hết lòng yêu thương nhau. Nhưng rồi sự vô tín ngưỡng đã đưa họ đến vực thẳm của thất vọng. Cuộc sống càng ngày càng trở nên nhạt nhẽo, vô nghĩa. Rồi một hôm kia, hai người dắt nhau đến một công viên ở Paris và thề thốt với nhau rằng, nếu trong vòng 12 tháng mà không tìm ra được một ý nghĩa nào cho cuộc sống thì cả hai sẽ cùng tự vẫn.
 
Rất may là sau 12 tháng họ đã tìm ra cho cuộc sống một ý nghĩa. Ý nghĩa ấy là tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa.
 
Sau đó cho đến cuối đời, họ đã giành tất cả cuộc sống của họ để làm chứng cho tình yêu và ân sủng họ đã nhận được.


Trong tác phẩm có tựa đề “Thủ lãnh của thế gian”, bà Raissa đã viết như sau: “Ma quỉ đã tung ra một mạng lưới ảo tưởng trên chúng ta. Mạng lưới này  tuy vô hình nhưng rất mãnh liệt. Nó làm cho chúng ta yêu thích  giây phút chóng qua hơn cuộc sống vĩnh cửu. Nó khuyến dụ chúng ta  chạy theo sự vô định hơn chân lý. Nó bảo ta rằng, ta chỉ có thể yêu mến tạo vật bằng cách thờ lạy chúng mà thôi”.


 
3. Gieronimo – môn đệ Chúa Kitô
 
Chàng Giêrônimô rất say mê những tác phẩm bằng tiếng La Tinh của Cicéron, lúc nào trên tay chàng cũng mang cuốn sách này, trước khi ngủ chàng phải đọc mấy trang cho đến khi rơi vào giấc ngủ. Lần kia, chàng nằm mơ thấy mình bị điệu đến trước Tòa Chúa để chịu xét xử. Chàng phải run lên vì thấy Chúa ngồi trên Ngai uy quyền, bên phải Chúa là các Thiên thần cầm roi; bên trái Chúa là bầy Satan cùng xiềng xích, gươm giáo, gậy gộc. Chúa lên tiếng hỏi:
 
- Ngươi là môn đệ của ai? Nếu thành thật thì án giảm, ngoan cố mà nói dối, thì sẽ bị đòn và trao cho quỷ lôi xuống Hỏa ngục!
 
- Dạ, con là môn đệ của Chúa.
 
- Không đúng, Thiên thần đâu cho tên này một trận đòn.
 
Sau trận đòn thứ nhất, Chúa lại cho Giêrônimô đứng dậy, hỏi
 
- Ngươi là môn đệ của ai? Nếu còn ngoan cố nói dối, thì đòn sẽ gia tăng.
 
- Dạ, con là môn đệ của Chúa Giêsu ạ.
 
- Không phải, vẫn nói dối, Thiên thần đâu gia tăng đánh đòn cho Ta.
 
Sau trận đòn thứ hai, Chúa lại cho Giêrônimô đứng dậy,và hỏi
 
- Này Giêrônimô, nếu quá tam ba lần nói dối, thì Ta sẽ giao cho quỷ lôi ngươi đi. Ngươi là môn đệ của ai?
 
Nghe được quỷ sẽ lôi đi, Giêrônimô quá sợ, chàng suy nghĩ một lát, rồi thưa
 
- Dạ, con là môn đệ của Chúa Giêsu Kitô ạ.
 
- Quá láo, ngươi không phải là môn đệ của Ta, ngươi là môn đệ của Cicéron. Quỷ đâu lôi nó xuống Hỏa ngục!
 
Vì quá sợ hãi làm chàng bừng tỉnh, nắn tay chân thấy mình còn sống, mừng quá vì đó chỉ là giấc mơ, chứ nếu là thật thì hết đường cứu thoát! Chàng quỳ ngay xuống tạ ơn Chúa!
 
Từ bấy giờ Giêrônimô dẹp bỏ tất cả các tác phẩm do tay người đời viết, chỉ ôm lấy cuốn Kinh Thánh vào rừng ăn chay cầu nguyện và suy gẫm Lời Chúa. Thời gian sau chàng trở về xin vào Dòng tu, và được làm Linh mục, và chính Linh mục Giêrônimô đã dịch Kinh Thánh từ tiếng Hy Lạp sang tiếng La Tinh, gọi là Bản Phổ Thông (Vulgata), được Hội Thánh dùng đọc trong Phụng Vụ. Ngài đã viết nhiều tác phẩm chú giải Kinh Thánh gọi là cuốn Kinh Thánh Bảy Cột, ngài giảng dạy rất xuất sắc. Trong cơn bệnh nguy tử, rất nhiều tín hữu đứng vây quanh khóc nức nở, vì biết sắp mất một thầy dạy Đức Tin tuyệt vời! Ngài quay mặt nhìn mọi người với ánh mắt trìu mến và nói: “Ai không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô.” Nói đoạn, ngài trút hơi thở!
 
4. Ngại thú tội
 
Trong cuốn “Hương rượu mới”, Keith Miller nói rằng như một tín hữu Tin lành, ông ngại thú tội với bất cứ ai. Ông tin rằng việc thú tội chỉ nên diễn ra giữa Thiên Chúa và ông. Tuy nhiên, Keith nhận thấy rằng cho dù Thiên Chúa có tha thứ cho ông, ông vẫn không thể tha thứ cho mình được. Ông bị dày vò nhiều tháng trời. Thế rồi một hôm, ông và một người bạn cùng cầu nguyện. Ông viết: “Trong khi cầu nguyện, tôi thú tội lớn tiếng với Thiên Chúa trước mặt người bạn, và sau đó không lâu, tôi đã chấp nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa.”
 
Một tội lỗi hay một hành động nào đối với Thiên Chúa và tha nhân vẫn còn dày vò tôi? Tôi có thể làm gì được?
 
Khi ta trung thực với người khác, điều đó đảm bảo tôi trung thực với Thiên Chúa và với chính mình.
 
5. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa
 
Một thi sĩ vô danh viết những vần thơ cho những ai thắc mắc về sự khôn ngoan của Tiên Chúa: “Bạn là kẻ không làm chuyển động được một vì sao, không tạo dựng được một ngọn núi, không đưa ra mẫu của một bông tuyết, không hiểu được mầu nhiệm sinh hạ, không thể thay đổi được vũ trụ, không thể tạo ra được một mầm chồi hoặc cho mưa rơi hay nắng ấm, không vẽ nên được ánh hoàng hôn hoặc làm cho bình minh ló rạng, không tạo nên được dù chỉ một phép lạ. Hỡi con người yếu đuối, làm sao bạn dám nghi ngờ Đấng duy nhất có thể làm được những điều đó.”
 
Phải chăng đôi khi tôi thắc mắc về sự khôn ngoan của Thiên Chúa? Tại sao? làm thế nào tôi giải quyết được thắc mắc đó?
 
Nếu công trình của Thiên Chúa dễ hiểu đối với lý trí con người, thì chúng chẳng còn tuyệt vời và chẳng có gì đáng nói nữa (Thomas Kempis)
 
6. Một người sống đức tin
 
Một giáo viên bắt đầu lớp học bằng cách nói về Chúa Giêsu. Cô nói: “Hôm nay, cô muốn kể cho các em về một người mà ai trong các em cũng muốn gặp. Người này yêu thương các em hơn cả những bạn thân nhất của các em. Người này tử tế hơn cả những người tử tế nhất mà các em biết. Người này tha thứ cho các em, dù các em thường hay phạm lỗi đến đâu đi nữa.” Trong khi tiếp tục, cô giáo chú ý đến một cậu bé ở cuối lớp càng lúc càng trở nên phấn khích. Đột nhiên, không còn kiềm chế được nữa, cậu hồi hợp thốt lên: “Em biết rõ người mà cô đang nói tới, ông ta sống ở khu phố chúng ta.”
 
Cuộc sống của tôi phản ánh cuộc sống của Chúa Giêsu về phương diện nào? Và không phản ánh ở phương diện nào?
 
Xin hãy tỏ sáng và ở lại trong con, để mỗi tâm hồn mà con tiếp tục cảm nhận được sự hiện diện của Ngài trong con (Henry Newman)


7. Tội cố chấp
 
Tục ngữ Ả Rập nói rằng: tội cố chấp có năm ngón tay, nó dùng hai ngón bịt mắt chúng ta, để chúng ta không thấy được tội lỗi xấu xa chừng nào. Nó sợ nếu chúng ta biết tội lỗi xúc phạm đến Chúa nặng nề thế nào, thì chúng ta không dám phạm.
 
Nó dùng hai ngón khác bịt tai chúng ta, để chúng ta không còn nghe thấy tiếng Chúa mà ăn năn sám hối. Nó làm như vậy để giữ chúng ta ở trong tình trạng tội lỗi lâu ngày, lòng chúng ta trở nên chai đá, và chúng ta không muốn thống hối nữa.
 
Nó dùng ngón cuối cùng bịt miệng chúng ta, để chúng ta không đọc lời thống hối, không phàn nàn hối hận vì tội lỗi đã phạm




THỨ BẢY -

Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn