Chương 5. Tại sao chúng tôi tin
THIÊN CHÚA CHIẾN THẮNG SỰ DỮ
Đôi khi người ta hỏi tôi: “Câu hỏi khó nhất về đức tin Công giáo mà anh từng trả lời là gì?" Họ thường nghĩ đến một câu hỏi có tính chuyên môn cao, nhưng những câu hỏi hóc búa nhất mà tôi nhận được lại thường có vẻ đơn giản và mang tính riêng tư:
“Nếu Chúa là toàn thiện, trọn tốt trọn lành, tại sao Ngài lại để con trai tôi chết trong một tai nạn xe hơi?”
“Nếu Chúa là toàn ái, trọn tình yêu thương, thế thì tại sao trẻ em lại bị ung thư?”
“Nếu Chúa là toàn năng, trọn quyền phép, thế thì tại sao Ngài không chỉnh lại những sự bất ổn trên thế giới?"
Vấn đề sự dữ và đau khổ là một trong những lập luận lâu đời nhất chống lại sự hiện hữu của Thiên Chúa: Nếu Thiên Chúa là toàn thiện và toàn năng, thì không thể có sự dữ. Nhưng sự dữ vẫn có đó; cho nên Thiên Chúa không yếu thì ác, hoặc là không có Thiên Chúa.
Lập luận này có sức thuyết phục tình cảm rất lớn, nhưng lại không chứng minh rằng không có Thiên Chúa từ góc độ logic. Thực ra, sự thiện và sự ác khách quan cung cấp bằng chứng cho sự hiện hữu của Thiên Chúa.
SỰ DỮ LÀ GÌ?
Để hiểu làm thế nào Thiên Chúa có thể cho phép có sự dữ, chúng ta phải hiểu "sự dữ" là gì.
Sự dữ không phải do Chúa tạo ra mà là sự vắng mặt của sự thiện mà Chúa cho phép xảy ra. Sự dữ là một kẻ ăn bám không thể có mà không có sự lành cũng như rỉ sét không thể có được nếu không có kim loại mà nó làm hỏng. Những tệ nạn đạo đức như hiếp dâm hay giết người, chẳng hạn, không thể có được mà không có điều tốt cho con người là quyền tự do lựa chọn đúng/sai. Những sự dữ tự nhiên, như mù lòa và bệnh tật, không thể có được nếu không có những sự lành như thú vật hay cây cối.
Mặc dù Thiên Chúa không tạo ra sự dữ, nhưng chúng ta vẫn có thể hỏi: “Tại sao Thiên Chúa cho phép những điều xấu xa như giết người hay mù lòa hiện hữu?
Sự dữ là một kẻ ăn bám ăn mòn sự lành.
Câu trả lời ngắn gọn là: được phép chọn sự dữ nếu khi làm như thế bạn mang lại sự lành lớn hơn hay ngăn chặn một sự dữ lớn hơn; ví như con người cho phép sự dữ bởi tai nạn xe hơi tồn tại, bởi thường xuyên dùng đến đường phố và đường cao tốc mang lại một sự lành vô cùng lớn. Chúng ta có thể thoát khỏi tai nạn xe hơi bằng cách xóa sạch xe hơi, nhưng giải pháp đó sẽ làm cho vấn đề mà chúng ta đang cố gắng giải quyết trở nên tồi tệ hơn.
Tương tự như vậy, Thiên Chúa có thể loại bỏ những sự dữ về luân lý như hiếp dâm bằng cách xóa sạch con người, hay lấy đi ý chí tự do của họ, nhưng thế giới sẽ tồi tệ hơn nếu tất cả chúng ta đều là người máy. Thế giới của chúng ta sẽ không còn bao điều tốt đẹp như đức tính anh hùng, như lòng trắc ẩn, kể cả tình yêu, và nhân loại sẽ trở nên những đương lượng phẩm hạnh của các trang thiết bị được lập trình.
Thế còn những sự dữ tự nhiên như bệnh tật hay thảm họa không có liên quan gì đến ý chí tự do của chúng ta thì sao? Những sự dữ này có thể giúp chúng ta tăng triển những đức tính không thể có được nếu Chúa loại bỏ hết mọi hoàn cảnh đau khổ. Ví dụ, Chúa không thể làm một ai can đảm nếu không để cho người ấy gặp nguy hiểm. Những sự dữ này cũng cần thiết cho chúng ta để sống trong một thế giới có thể nói trước, nơi Chúa không can thiệp trong từng giây từng phút để bảo vệ chúng ta khỏi đau khổ.
Cuối cùng, là những con người có giới hạn và có thể sai lầm, chúng ta không có tư cách để nói Thiên Chúa không thể mang đến sự lành lớn hơn từ một sự ác mà chúng ta gặp phải. Hãy hình dung một người đứng cách bức tranh Mona Lisa một inch và nói, “Đây là một bức tranh khủng khiếp! Nó toàn là vết bẩn đen!" Tất nhiên, người đó không thể đánh giá cao vẻ đẹp và giá trị của toàn bộ bức tranh một khi anh ta chỉ nhìn vào một phần nhỏ xíu của nó. Cũng vậy, nếu chỉ nhìn vào đau khổ, chúng ta đánh mất tầm nhìn về bức tranh lớn, hay cách thức Chúa dùng đau khổ để tạo ra được một thế giới xinh đẹp và hoàn hảo.
Hãy xem trường hợp của Nick Vujicic, một người bẩm sinh không có cả tay lẫn chân. Khi còn trẻ, anh đã rất sầu não, đã cố gắng dìm mình trong bồn tắm. Tuy nhiên, sau khi biết đến Chúa và thấy rằng cuộc đời mình không phải là một sự rủi ro, Nick đã biến đổi. Bây giờ anh đi khắp thế giới để chia sẻ tình yêu của Thiên Chúa xuyên thấu nỗi đau khổ sâu sắc nhất của chúng ta như thế nào. Anh viết, “Ngay cả trong những tình huống tồi tệ nhất như vượt quá khả năng của chúng ta, Chúa biết lòng chúng ta có thể chịu đựng được đến đâu. Tôi vững lòng tin rằng cuộc sống của chúng ta ở đây là tạm thời, vì chúng ta đang được chuẩn bị cho cõi đời đời.”[1]
THỰC CHẤT CỦA VẤN ĐỀ
Đối với một người đang khổ đau, tôi hiểu tại sao câu trả lời đó có thể chẳng làm họ hài lòng. “Tôi không cần!” cô ấy nói. “Nếu Chúa yêu tôi, Ngài sẽ cất đi nỗi đau này trong đời tôi. Ngài sẽ không để cho quá nhiều điều tồi tệ xảy ra cho con người!
Đó là một phản ứng bình thường đối với nỗi đau khủng khiếp, và đó là lý do tại sao tôi đồng ý với người bạn và đồng nghiệp của tôi, Jimmy Akin, người đã chứng kiến vợ mình qua đời vì bệnh ung thư một thời gian ngắn sau khi họ kết hôn. Anh ta nói, “Không phải lúc nào Chúa cũng cho chúng ta biết lý do cho nỗi đau khổ của chúng ta, nhưng ngài cho chúng ta biết cách chịu đựng nó." Một điều giúp tôi chịu đựng đau khổ là nhận biết rằng sự dữ không có ý nghĩa gì nếu không có Chúa.
Nhiều người nói sự dữ chỉ là “điều xấu” hay “điều gây tổn thương”, nhưng các định nghĩa đó không có giá trị. Trám một cái răng hay bị trừng phạt vì một tội ác mà anh đã phạm đều gây tổn thương, nhưng đâu phải là sự dữ. Đúng thế, đây là những ví dụ cho sự ép buộc trong y khoa hay pháp luật là tốt. Mặt khác, có thể có những trường hợp sự dữ không gây đau đớn. Một người đàn ông tưởng tượng chuyện cưỡng hiếp trẻ em nhưng không bao giờ thực hiện điều mình tưởng tượng, Anh ta không gây đau đớn, nhưng rõ ràng anh ta có suy tưởng xấu, những suy tưởng không tốt.
Đây là một định nghĩa tốt hơn: Sự dữ là những gì chúng ta chịu đựng khi sự việc không đúng theo cách thế chúng phải theo.
Hiếp dâm, giết người, ung thư và những điều tồi tệ khác đều là sự dữ vì chúng vặn vẹo con đường thế giới phải theo. Tính dục phải là một hành vi của tình yêu, không phải của bạo lực. Các tế bào phải phát triển thành các bộ phận cơ thể, không phải thành khối u. Nếu sự dữ quy mọi sự về con đường không được theo, thì sự lành phải quy mọi sự về con đường phải theo. Nhưng nếu mọi sự được cho là phải theo một con đường nhất định, thì điều đó có nghĩa là phải có cả một kế hoạch có tính vũ trụ và một người lập kế hoạch cho vũ trụ - một nhà kế hoạch mà nhiều người gọi là Thiên Chúa.
MỘT NHÀ VÔ THẦN THỪA NHẬN: ĐẠO ĐỨC CHỨNG MINH CÓ THIÊN CHÚA
Triết gia vô thần J.L. Mackie đã viết, “Các thuộc tính đạo đức tạo thành một cụm các thuộc tính và nối kết kỳ lạ đến mức chúng hầu như không thể phát sinh trong quá trình diễn biến thông thường của các sự việc nếu không có một vị thần toàn năng tạo ra chúng.”[2]
Mackie tin vào chủ nghĩa vô thần mạnh mẽ đến nỗi ông phủ nhận sự tồn tại của những sự thật đạo đức khách quan, mặc dù chúng được coi là đúng đối với hầu hết mọi người. Có lẽ chúng ta phải chấp nhận rằng đạo đức là có thật và nó đến từ một Thiên Chúa toàn năng, mà chính Ngài là sự thiện.
MỞ RỘNG Ý NGHĨA
Không chỉ vũ trụ được cho là phải theo một đường lối nhất định, bạn và tôi được cho là phải theo một đường lối nhất định. Khi xã hội bao bọc những sự dữ như diệt chủng hay chế độ nô lệ, thì các anh hùng là những người nói hãy làm điều phải hơn là chấp nhận điều có tính đại chúng. Kể cả Martin Luther King Jr. cũng nói: “Luật công bằng là bộ luật do con người tạo ra phù hợp với luật đạo đức hay luật của Chúa.”[3]
Mặt khác, khi làm một điều sai trái, dù không bị ai phát hiện, chúng ta vẫn cảm thấy có tội. Chúng ta cảm thấy như thể chúng ta không sống theo tiêu chuẩn của con người mà chúng ta có ý trở nên. Hầu hết chúng ta đều nói với một ai đó sau khi làm tổn thương họ, “Tôi hết lòng xin lỗi, tôi không muốn thế." Lý do khiến chúng ta cảm thấy như vậy là vì Thiên Chúa đã trao luật đạo đức của Ngài cho chúng ta và viết nó vào lòng của chúng ta dưới hình thức của tiếng lương tâm.[4] Thậm chí Kinh thánh còn dạy rằng những ai không biết Thiên Chúa một cách cá nhân vẫn biết Ngài qua lương tâm của họ (Rm 2:14-16).
Chúa ban cho chúng ta luật đạo đức không phải là để cho chúng ta thấy mình có tội, mà để chúng ta có thể đạt tới hạnh phúc thực sự. Hãy tưởng tượng cuộc sống sẽ tuyệt vời như thế nào nếu không một ai nói dối, ăn cắp, giữ mối hận thù, hay lợi dụng người khác. Từ sâu thẳm đáy lòng chúng ta biết chúng ta được tạo ra để trở thành con người như thế, và ngay cả những đau khổ trong cuộc đời này lại có thể giúp chúng ta đạt được mục tiêu đó. Câu Kinh thánh yêu thích của tôi diễn đạt điều đó như sau:
Mọi chuyện xảy đến cho con, con hãy chấp nhận, và trải qua bao thăng trầm, con hãy cứ kiên nhẫn. Vì vàng phải được tôi luyện trong lửa, còn những người sáng giá thì phải được thử trong lò ô nhục. Hãy tin vào Người, thì Người sẽ nâng đỡ con. Đường con đi, hãy giữ cho ngay thẳng và trông cậy vào Người. (Hc 2:4-6).
TÌNH YÊU THIÊN CHÚA Ở GIỮA NỖI KINH HÃI PHÁT XÍT
Một trong những tù nhân tại trại tập trung Đức Quốc xã Auschwitz là một linh mục tên là Maximilian Kolbe. Sau khi một tù nhân được cho là đã trốn thoát, các lính canh đã chọn mười người đàn ông phải chết trong hầm chết đói để dạy cho những tù nhân còn lại một bài học. Các lính canh bắt đầu lôi đi một người đàn ông tên Franciszek, người vừa dậm gót chân vào bùn trên mặt đất vừa kêu lên, “Người vợ tội nghiệp của tôi! Những đứa con đáng thương của tôi!” Vào lúc đó, Cha Kolbe bước tới và nói, “Tôi là một linh mục Công giáo. Hãy cho tôi thay thế vị trí của anh ta. Tôi đã già rồi, anh ta thì còn vợ và con cái.”[5]
Các lính canh cho phép Cha Kolbe thế chỗ của Franciszek, và trong hai tuần sau đó, ngài an ủi những người đã bị kết án tử hình khác. Bất cứ khi nào lính canh nhìn vào phòng giam của ngài, đều thấy cha Kolbe đang đứng hay quỳ gối cầu nguyện. Sau khi tất cả các tù nhân khác đã chết, các lính canh đã không chờ cho đến khi cha Kolbe chết vì đói nữa, mà tiêm carbolic axit vào cánh tay trái của ngài và sau đó hỏa táng hài cốt của ngài.
Đây có phải là một thí dụ về sự dữ là chứng cớ cho thấy Chúa không hiện hữu không?
Những gì Đức Quốc xã đã làm là sai một cách khách quan chứng tỏ có một tiêu chuẩn chung cho đạo đức xuất phát từ một nguồn gốc chung của sự thiện, là Thiên Chúa. Đạo đức không thể chỉ là một cơ chế sinh tồn mà con người phát triển qua quá trình tiến hóa, bởi vì một số người cảm thấy bắt buộc phải làm những việc không giúp ích gì cho sự sống còn của chúng ta, chẳng hạn như hy sinh mạng sống của mình cho một người lạ. Dù vậy, nếu tất cả chúng ta đều được tạo nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, thì điều đó giải thích cho lòng khao khát chiến đấu và thậm chí chết vì nhân phẩm của người khác trong lòng chúng ta. Thực vậy, Franciszek đã sống sót qua thời gian ở Auschwitz và dành phần đời còn lại của mình để nói với mọi người về đức tính anh hùng của Cha Kolbe.
Điều gì đã trao cho Cha Kolbe sức mạnh để đối mặt với sự dữ và đau khổ to lớn như vậy? Là một linh mục, ngài đã cống hiến cuộc đời mình để bắt chước Chúa Giêsu Kitô, và Chúa Giêsu sẵn sàng làm bất cứ điều gì để cứu nhân loại khỏi tội lỗi của mình, cho dù có phải chết một cách đau đớn và nhục nhã trên thập giá. Vì Chúa Giêsu là Con thần linh của Thiên Chúa nên Ngài có thể dâng một hy lễ yêu thương vô hạn, hoàn hảo để đền bù tội lỗi của cả thế giới. Đối với những ai tin vào Chúa Giêsu, hy lễ này muốn nói rằng cái chết không phải là kết thúc của cuộc đời, nhưng đúng hơn là bắt đầu cho một cuộc sống mới với Chúa trên thiên đàng. Khi ngài chuẩn bị chịu hành quyết, tôi sẽ không ngạc nhiên nếu Cha Kolbe nghĩ đến câu Kinh Thánh này: “Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi? Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi?" (1 Cr 15,55).
Vấn đề sự dữ không phải là vấn đề của Chúa - mà là của chúng ta.
Nếu có một tiêu chuẩn hoàn hảo, khách quan của sự thiện thì bất cứ khi nào chúng ta chọn sự dữ, chúng ta thất bại với tiêu chuẩn đó. Nhưng các chuẩn mực đạo đức không giống như các quy tắc cứng nhắc của toán học. Đạo đức là chuyện lựa chọn giữa thiện và ác của con người, nên chuẩn mực đạo đức hoàn hảo phải xuất phát từ một cá thể hoàn hảo, Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là bất cứ khi nào chúng ta chọn sự dữ, chúng ta tự tách mình ra khỏi Thiên Chúa, là chính Sự Thiện.
Tất cả là hồng ân, bởi cuộc trỗi dậy từ cõi chết, Chúa Giêsu cho thấy rằng bất cứ ai tin vào Ngài cũng được chia sẻ sự phục sinh của Ngài để có được sự sống đời đời. Thiên Chúa sẽ trao ban cho mọi người tin theo Chúa Giêsu món quà ân sủng, trao ban cách nhưng không sự sống thần linh của Chúa. Ân sủng Chúa ban giúp chúng ta chết cho chính mình và, nếu cần, chết cho người khác.
Nhưng làm sao biết được Giêsu là Thiên Chúa? Làm sao biết được Ngài sống lại từ kẻ chết? Điều gì sẽ xảy ra nếu những câu truyện về Giêsu chỉ là câu truyện? Chúng ta đã kiểm tra bằng chứng triết học cho sự hiện hữu của Thiên Chúa, nhưng bây giờ chúng ta phải kiểm tra bằng chứng lịch sử cho thấy vị Thiên Chúa này đã tỏ mình ra cho thế giới trong con người Giêsu Kitô.
TẠI SAO CHÚNG TÔI TIN: THIÊN CHÚA CHIẾN THẮNG SỰ DỮ
• Dữ là không có thiện.
• Một người tốt có thể dùng đến sự dữ nếu anh ta dùng sự dữ đó để mang lại các sự thiện lớn hơn.
• Sự thiện khách quan và sự dữ khách quan chỉ hiện hữu một khi có một quy luật luân lý khách quan đến từ một nhà lập pháp hoàn hảo, là Thiên Chúa.
[1] Nick Vujicic, Cuộc sống không giới hạn (New York: Doubleday, 2010), 34.
[2] J.L. Mackie, Phép lạ của chủ nghĩa hữu thần: Các lập luận ủng hộ và chống lại sự hiện hữu của Thiên Chúa (Oxford: Oxford University Press: 1982), 115.
[4] Một số người nói rằng đạo đức không thể dựa trên Thiên Chúa bởi vì nếu Thiên Chúa ra lệnh cho chúng ta làm điều gì xấu, như tra tấn một đứa trẻ, điều đó sẽ không trở thành đạo đức chỉ vì Chúa ra lệnh cho nó. Vì vậy, phải có một điều gì đó ở bên trên Thiên Chúa để làm nền tảng cho đạo đức và xác định những hành vi đó là xấu một cách khách quan. Nhưng vì Thiên Chúa là một hữu thể hoàn hảo và vô tận, hiện hữu không có giới hạn hay khuyết điểm, nên nhất thiết Ngài sẽ chỉ ra lệnh cho những hành động tốt tương ứng với bản chất hoàn hảo của Ngài. Thiên Chúa không bao giờ có thể muốn chúng ta làm một điều gì ác, vì chính Ngài là sự thiện và mong muốn chúng ta nên thánh vì Ngài là thánh (1 Pr 1:16). Sách Giáo lý, trích dẫn Thánh Thomas Aquinas, dạy rằng “Sự toàn năng của Thiên Chúa không hề có tính chất độc đoán: “Nơi Thiên Chúa, quyền năng và yếu tính, ý muốn và trí tuệ, sự khôn ngoan và sự công chính là một. Do đó, không có gì trong quyền năng của Thiên Chúa mà không ở trong ý muốn công chính của Ngài, và trong trí tuệ khôn ngoan của Ngài” (GLCG 271).
[5] Jennifer Jackson, Đạo đức trong Y học: Đức hạnh, Nết xấu và Dược phẩm (Cambridge: Polity Press, 2006), 140.